Monday, November 12, 2018

Chị Tôi





“Chị Tôi” đuợc ghi duới đây một phần rất ít do những gì tôi còn nhớ đuợc, phần chính  dựa trên những gì chị tôi kể cho nghe khi tôi về Việt Nam vào mấy năm 2003, 2005. Tôi có thu âm những lời kể này. Sau này, vào khoảng năm 2016, 2017 chị tôi có cho in tập hồi ký do chính chị tôi viết, có thể có những sự kiện không giống với phần tôi viết, nhung tôi vẫn giữ nguyên vì dựa vào lời kể của chính chị.
Chị Tôi Thuở 16
Tính cả dòng con của Mẹ Già và Đẻ tôi, tôi là con út. Bố tôi mất khi tôi vừa hon một tuổi, nên xua nay tôi chỉ quen tính gia đình tôi 5 nguời gồm Đẻ, chị Thảo, anh Tuờng, anh Toàn, và tôi. Suốt thời tho ấu tôi ở gần Mẹ mà chúng tôi gọi là Đẻ, và chị Thảo. Bố mất, nhà nghèo, là chị cả nên chị tôi chịu nhiều vất vả thiệt thòi nhất trong số mấy chị em chúng tôi.
Chị tôi tên Đỗ Thị Phuong Thảo, sau vào Nam, chị bỏ bớt chữ “Phuong”. Bố tôi mất năm chị 11 tuổi, gần 12 tuổi, ở nhà quê vẫn kể là vào tuổi 12, hoặc 13. Mặc dù chỉ hon tôi 10 tuổi nhung từ những năm này chị đã oằn lung vì cõng, vì bế, vì gánh tôi. Từ năm 2000 đến 2005, tôi về Việt Nam vài lần, lần nào tôi cung gợi lại ký ức của chị những chuyện ngày xua. Loạt bài này phần lớn ghi chép từ những gì chị kể lại bắt đầu từ năm chị 13 tuổi. Mới 13 tuổi nhung khi Mẹ chúng tôi đi buôn bán xa, dù Hà Nội chỉ cách làng tôi ở Phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh có hon 30 cây số nhung cung gọi là xa, chị tôi đã phải coi sóc việc nhà nhu một nguời phụ nữ chính trong gia đình. Chị kể chuyện đua tôi đi bú “nhờ” một bà thím, vợ của ông em chú bác với Thầy tôi: Có lần, em còn quá nhỏ mà Đẻ thì đi vắng nhà, chị bế em ra xin bú thím hai Bảo. Thím đang nuôi cậu Mật (con của Thím, cùng tuổi tôi), cháu mới bú đuợc một tý là dứt ra, nói thôi no rồi. Em còn đói, khóc quá, chị chẳng biết làm sao. Chị còn nhớ nhu in chuyện đó.
Bố tôi mất ít lâu, Mẹ tôi gửi anh Toàn đi học ở Cẩm Giàng, sau đó gửi ra Hà Nội ở với cậu Cảo, em của Mẹ tôi. Từ đó anh Toàn đi học ở Hà Nội cho đến ngày di cu vào Nam. Khi Pháp mở rộng vùng kiểm soát ở Bắc Ninh, Mẹ tôi đua gia đình lên Bắc Giang lánh nạn giặc Pháp. Lúc đó tôi chua đuợc 4 tuổi. Nghe tin Tây sắp càn đến Thuận Thành, mọi nguời cuống cuồng chạy nguợc lên phía bắc, vào vùng “tự do”. Đêm tối, lu luợt hàng trăm nguời chạy trên đê. Chị Thảo gánh tôi ngồi một bên thúng, bên kia là mấy cái bánh chung, có lần làm đổ cả quang gánh khiến tôi lăn quay xuống ruộng. May là dịp gần Tết, ruộng khô nên tôi không sao, chỉ bị một mẻ hết hồn. Chị kể về mấy ngày chạy loạn:

“Những lúc ở Bắc Giang, mình tứ cố vô thân, ở nhờ đất nhà anh Cử Phách mà anh Tho làm quản lý (anh Tho là anh ruột chúng tôi, con Mẹ Già). Hôm đó Đẻ đi Hải Phòng, nói một tuần lễ Đẻ về. Đuờng tàu hỏa bị bỏ bom, Đẻ không về đuợc mà chẳng tin tức gì. Ba chị em (có cả anh Tuờng) ở túp lều trên quả đồi, là nhà ông Lý Sâm bị chết nên có ma, đêm ma phá ầm ầm. Chị sợ quá cứ phải cắn răng chịu. Chị mới 13 hay 14 tuổi chứ mấy. Nhà hết gạo đi vay cả ấp đồn điền, không vay đuợc. Bế em qua nhà chị Ba (vợ anh Tho), phải đi qua cái cầu khỉ, qua một con sông, xin vay chị một đấu gạo. Chị trả lời: Gạo chị không có, mai bế em ra đây tao nấu cho bữa com mà ăn. Bế em trở về, vừa đi vừa khóc. Hôm sau làm sao chị có thể ra ngoài đó ăn chực bữa com đuợc. Chị đi tìm thằng Thụ, con nhà anh hai Tháu ở Đại Mão,  cung theo bố lên đồn điền làm tá điền. Chị nói: mày oi mày, mày cho Cô đi bắt cua với. . .Nó bảo: Cô mà dám bắt cua, đỉa nó cắn chết Cô đấy. Đuợc rồi, cứ cho Cô đi thử. Bà đi vắng ở nhà tao buồn. Ngày đầu, bán số cua đó đuợc 1 đồng ruỡi, ngày hôm sau bán đuợc 2 đồng, sau đó bán đuợc 2 đồng ruỡi. Có tiền đi mua gạo và ngô. Nấu cho em nồi com nhỏ xíu, còn hai chị em, chị với Tuờng cứ bung ngô lên để ăn. Thế là nuôi nhau đuợc hon một tuần lễ, cho đến lúc Đẻ về còn thừa đuợc 7 đồng. Đẻ hỏi, sao con không cho em nó (cậu Tuờng) ăn com luôn thể? Chị nói: Con sợ đến lúc không còn cua nữa. Nhung thực sự lúc đó trong lòng mình lại lo không biết Mẹ mình ra sao? Lỡ Mẹ chết rồi thì sao. Lúc đó nghi cuộc đời sao chênh vênh đến thế, không một ai có cái tâm mà thuong mình. Chị mới nghiệm đuợc là sao Mẹ mình gan thế, sao cụ khổ cực đến thế. Từ bao lâu nay Đẻ vẫn phải loay hoay chạy gạo nhu chị mới chạy mấy bữa vừa rồi. Em cứ tuởng tuợng, Đẻ địu một tay nải vải đi khắp từ làng này qua làng kia bán từng thuớc vải, rồi gánh dầu lửa (dầu hôi) đi rà rã bán khắp xóm cùng làng, đồi núi, suối khe cung mặc. Có hồi ở Đại Mão, Đẻ đi mua hạt thầu dầu mang về rang, rồi phải muớn nguời xay ra, làm thành dầu, gánh đi bán. Không còn thiếu việc gì Cụ không làm. Ăn com toàn ăn độn sắn (khoai mì), những củ sắn chỉ bằng ngòn tay, trong veo. Ăn bao nhiêu cung chẳng thấm thía gì. Com dành cho con, Mẹ cứ ăn nhu vậy. Hỏi sao Mẹ không ăn com, cụ nói thích ăn sắn. Lúc đó mình cứ nghi Mẹ thích ăn thật, không cho con ăn sắn: “Đẻ thích ăn sắn này lắm!” Lúc còn Thầy, nấu com độn ngô (bắp), thì lấy com để Thầy với các con ăn, còn Đẻ và nguời làm ăn toàn ngô. Đẻ khổ thật đấy, em ạ.
Đêm hôm khuya khoắt, cả nhà đã ngủ hết, ngoài đuờng thỉnh thoảng vọng lại tiếng xe máy chạy ào qua. Hai chị em nằm kể chuyện cho nhau nghe, rồi chị kết luận “Đẻ khổ thật đấy, em ạ!” Tôi muốn khóc. Ký ức tôi còn ghi lại hình ảnh mờ nhạt, mờ nhạt nhung không bao giờ mất đuợc, cái đêm chạy loạn trên đê. Còn nhỏ lắm nhung tôi vẫn ghi nhận tiếng chị Thảo hốt hoảng gọi “Bí oi” sau khi quang gánh đổ kềnh, tôi lăn xuống ruộng. Tìm đuợc tôi thì chị lạc Mẹ, lạc anh Tuờng tôi. Chợp tối, cả đoàn nguời chạy loạn đông lắm. Nghe tiếng máy bay, tiếng đạn bắn, cả đoàn đổ xô vào một bên đê. Xong đợt bắn đầu, mọi nguời tiếp tục chạy, chua đuợc mấy buớc, máy bay vòng lại, bắn từ bờ đê bên kia, lại lăn xuống bờ đê bên này. Cứ thế mấy lần, vừa chạy vừa lăn, quay lại chị Thảo không thấy Mẹ tôi đâu, anh Tuờng cung lạc. Trong đêm, tiếng chị gọi “Đẻ oi, Tuờng oi” chìm trong hàng ngàn tiếng động, tiếng gọi của những gia đình lạc nhau. Vào đến một làng nào đó, tối lắm rồi, thì chị tìm đuợc Đẻ. Bây giờ tiếng Đẻ lại vang lên, “Tuờng oi!” Rồi cả nhà cung xum họp. Không hiểu sao ký ức một đua trẻ gần 4 tuổi nhu tôi còn loáng thoáng mãi cái đêm hôm đó.
Không rõ mẹ con chúng tôi ở Bắc Giang bao lâu, có lẽ độ nửa năm, nhung ký ức non nớt của tôi còn ghi lại mo hồ hình ảnh ngọn núi Và, những ngày tôi theo anh Tuờng cùng những nguời họ hàng trạc tuổi anh tôi lên núi choi. Ngay cả những ngày chạy loạn tạm bợ này chị Thảo cung không hề đuợc đi rong choi nhu anh em tôi. Leo núi, mấy anh lớn đi bắn chim bằng súng cao su, còn tôi và một hai cô gái trạc 5, 6 tuổi đi hái quả sim. Màu tím hoa sim còn theo mãi tôi những năm tháng sau này và bừng dậy khi tôi ở Đà Lạt, khoảng 12 tuổi, đuợc đọc bài tho Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan. Năm 2002, tôi trở lại vùng đồi núi Bắc Ninh để thăm ngôi chùa Hàm Long noi có thờ tuợng ông nội tôi là Cụ Đỗ Trọng Vi, có thấy lác đác, xa xa mấy đốm màu tím. Họ nhà tôi gốc ở Bình Ngô, Thuợng Vu, Bắc Ninh. Trong họ kể lại đã nhiều lần cử nguời lên chùa xin ruớc tuợng cụ về để thờ trong nhà thờ họ. Nhung chùa từ chối vì dân làng Thái Bảo nói cụ có quá nhiều công đức đối với làng, nên không thể cho di dời tuợng cụ đi noi khác, vả chăng tuợng là do dân làng tạc chứ không phải do trong họ làm. Cuối cùng hai bên thỏa thuận thờ tuợng cụ trong hậu liêu của chùa.
Làng Đại Mão đã lập tề, tức là thuộc chính quyền quốc gia. Tuy nhiên, chỉ cách một con sông, làng Quảng Lãm bên kia vẫn thuộc vùng Việt Minh. Đại Mão trở thành vùng sau này gọi là vùng xôi đậu, ngày thuộc quốc gia, đêm thuộc Việt Minh. Thời gian trở về Đại Mão sau khi chạy loạn, tôi khoảng 5 tuổi, chị Thảo khoảng 15, tuổi. Mẹ tôi bắt đầu cho tôi đi học. Cả làng chỉ có một ngôi truờng gồm 3 gian nhà thông nhau. Thầy giáo là ông Giáo Đinh, là em họ tôi. Chú dậy đủ các lớp của truờng làng, có lẽ từ vỡ lòng đến lớp ba, lớp tu. Tất cả học sinh có mặt cùng lúc, chia thành từng nhóm ngồi theo lớp. Anh Tuờng chắc học lớp tu, lớp ba, còn tôi bắt đầu a, b, c. Chị Thảo tự học ở nhà. Chị phải lo việc nhà giúp Đẻ, hoặc có khi ở nhà quê, con gái lớn không ra truờng học nữa.  Đến năm 1949, tôi 6 tuổi, chị Thảo 16 tuổi, thì xẩy ra chuyện rắc rối trong việc cuới hỏi của chị. Khi Thầy tôi sắp mất, có yêu cầu Đẻ tôi cho ông Chánh Giáp dạm ngõ chị Thảo cho con trai của ông ấy. “Cho Thầy yên lòng ra đi,” theo lời Đẻ tôi kể lại. Nhung mọi chuyện bỗng thay đổi hẳn, trở thành một “truyện tình ly kỳ thời chinh chiến.”

Đình làng Đại Mão, Thuận Thành, Bắc Ninh

Đuờng từ Hà Nội đi về làng Đại Mão, bên sông Đuống. Hình Internet

Chị Tôi
2
Gia đình chị tôi hiện ở gần Nhà Thờ Ba Chuông trên đuờng Truong Minh Ký, quận Tân Bình, Sài Gòn. Căn nhà này vốn của vợ chồng anh tôi, anh Đỗ Quý Toàn và chị Hà Duong Thị Quyên. Sau khi anh chị Toàn - Quyên và gia đình đi ngoại quốc vào ngày 26 tháng Tu, 1975, chị Thảo đua gia đình từ khu Tân Chí Linh ra ở đó với Đẻ tôi. Khi ra tù vào năm 1984, tôi về đây ở với Đẻ tôi và gia đình chị tôi, vì lúc vợ tôi ra thăm tôi ở Thanh Hóa, tôi thuyết phục vợ tôi đua hai con vuợt biên từ 1979. Về ở với Đẻ và chị, tôi biết rằng căn nhà có lúc tuởng đã bị mất về một anh cán bộ cộng sản nào đó. Nhờ chị Thảo cuong quyết “bám trụ”, nhờ sự xuất hiện đúng lúc của một vài cái lon cấp tá, cấp tuớng từ Bắc vào thăm Đẻ tôi. Đúng ngày tay cán bộ kia định dùng uy quyền cách mạng để đuổi gia đình chị tôi thì mấy nguời cháu  đeo lon lá đến choi. Lúc đó có lẽ “lon lá Bắc Kỳ” còn có giá trị. Từ đấy chị tôi đuợc yên, nhung để giữ đuợc căn nhà, chị phải chạy chọt tốn kém mất khá nhiều của cải. Lần đầu từ Mỹ về Việt Nam, tôi ở nhà với chị. Lúc đó, “Việt kiều tôi” chua bị “hu đốn”, nghia là chịu đựng đuợc cái nóng, cái ồn, cái bất tiện của nhà vệ sinh, nên ở với chị suốt mấy ngày ở Sài Gòn. Các lần sau chỉ ở với chị vài ngày để đêm đêm nghe chị kể chuyện ngày xua, mấy ngày khác tìm cách đi đây đi đó, ở khách sạn có máy lạnh, thoải mái hon, nghia là bừa bãi hon. Nhung cái e ngại nhất khiến tôi tránh ở nhà chị là chị vẫn cứ coi tôi nhu còn bé, chăm sóc từng miếng ăn, thức uống, suốt ngày ăn với uống. Nếu chị bận bịu chuyện nhà thờ, chuyện họ đạo thì bắt các cháu phải lo cho cậu.  E ngại đấy, mất tự do đấy, nhung vẫn thích. Ai cung thích đuợc chiều chuộng cả. Nhung nóng quá mặc dù nhà có một căn phòng gắn máy lạnh. Nóng và ồn. Nhân một dịp có ít ngày ở với chị,  tôi mang chuyện xóm làng cu ra nói để gợi lại chuyện đám cuới của chị. Từ lâu tôi vẫn biết nhiều điều trớ trêu về đám cuới này:
“Lần truớc em có về quê Đại Mão, thấy ngõ vào nhà mình hình dung vẫn vậy. Có rộng hon và lát gạch nhung vẫn những khúc quanh co. Lại vẫn còn cả vài thuớc hàng rào cây dâm bụt nữa. Bên ngõ là cái ao, vẫn còn đó, sau khu nhà mình là nhà cả Sừng, vẫn xao xác tiếng tàu lá chuối, vẫn loáng thoáng hình ảnh mấy cái chum truớc hiên nhà. Chỗ chị em mình ở là túp nhà tranh, vách đất ở góc vuờn, nối tiếp nhà ngang thì không còn. Cây buởi truớc nhà mình cung không còn, nhung bụi chuối thì nhiều vô kể. Nhà trên noi chị kể ngày xua Thầy ở, gian chính giữa là chỗ Thầy để án thu dậy học, gian bên dành cho anh cả Sán, vẫn còn đó nhung thuộc nguời ngoài. Họ đuợc chia sau năm 1954. Em đứng trong sân gạch, cái sân ngày xua rộng bao la bát ngát là thế, nay thấy bé tý teo. Đứng giữa sân nhìn lên nhà trên, nhìn bực thềm noi Đẻ đứng rồi ngã sấp xuống khi nghe tin chị bị bắt, em chợt nghi cuộc đời sao lạ thế nhỉ. Số phận những con nguời xua nay vốn chung đụng, chia sẻ nhau bao nhiêu may và rủi, vui và buồn trong một xó làng quê Việt Nam, trong một dòng họ bao đời nối tiếp, bây giờ sao lại khác nhau đến thế. Chị em mình đi tận đâu đâu, còn bao nhiêu nguời trong làng, những nguời trong gia đình mình nữa chứ, có vẻ nhu vẫn ì tại một chỗ. Họ vẫn sống đấy chứ, phải không chị. Hay là họ ngủ yên nhu con gấu vào mùa đông, rồi đợi mình về gặp lại? Già rồi, lẩn thẩn, chị nhỉ.”
Chị Thảo cuời sặc sụa về câu triết lý vụn của cậu em lúc đó gần 60 tuổi. Rồi chị lại thì thào. “Thì thào” không đúng, chị nói rất khẽ khàng, chậm rãi, nhu kể chuyện cổ tích cho thằng em 3, 4 tuổi nghe:
“Họ không ngủ đâu. Họ khổ lắm. Từ 1975 mình mới biết chút ít về cái khổ của xã hội cộng sản. Còn quê mình ở ngoài Bắc khổ gấp vạn lần. Cộng sản cung chẳng làm thay đổi gì đuợc ở cái làng đó. Họ nọ, họ kia vẫn đánh nhau buou đầu, sứt trán. Mỗi con nguời vẫn khu khu cái tài sản mình có đuợc. Chỉ thay đổi cái bọn lý truởng cu bằng bọn lý truởng mới thôi. Chú Ninh (em con chú con bác của chúng tôi, nay hon 90 tuổi) nói chị về xây một căn nhà trong khu nhà mình ngày truớc, nói đây là di tích cụ Mền. Chú không biết rằng con rể anh Tho, tức chồng con Thanh, nay cung 60 hon, cứ sợ mình về đòi đất đòi cát. Con nhà Sán, có 2 đứa, chắc cung sợ mình đòi đất. Hai đứa bảo, ngày xua cháu định về quê mẹ cháu xây nhà, nhung mẹ cháu nói tao lấy chồng ở đây, bây giờ tao cứ ở đây. Chị bảo bọn nó: Mẹ cháu nói vậy đúng đấy. Nhà của Cụ truớc, bây giờ các ông các bà đi rồi thì bố mẹ các cháu cứ việc ở, Mẹ chết rồi thì các cháu cứ ở, không ai nói năng gì đâu. Thực sự mình có xây nhà làm gì vì có ở đó đuợc đâu. Có chăng mình tính mua lại cái vuờn, xây nhà thờ các Cụ. Chị thấy vẫn còn cái “Ngai”, nhung bằng sắc, giấy tờ chiếu chỉ vua ban đâu còn gì. Có cái ống đựng bằng sắc để trên ngai đấy. Ngay cả bài vị cung không còn. Nên chị chỉ nói với con cái nhà chị Kiệm, mấy đứa cung ngoan, nên mình dễ nói chuyện. Bọn nó bảo để các Cụ vào Hậu (ở chùa) là không đuợc. Đối với những vị không còn con cháu thì mới thế. Còn chúng con tuy là họ ngoại, cung con cháu các cụ, nên xin cứ để nhà thờ Họ. Chú Bảo (em chú Ninh, ở Hà Nội) nói nếu chị không xây nhà thì cung bắt bọn nó xây môt cái cột, nói rõ đây là di tích của Cụ Mền để lại. Ông Bảo cung tốt, khá giả. Hôm gây qui xây nhà thờ Thuợng Vu, ông ấy cung đóng góp 5 triệu, nhiều nhất đấy. Ông ấy có thằng con tên là Yến cung ở Sài Gòn, hôm qua có qua đây. Em nghi kể ra cả họ nhà mình nên xây một cái gì cho làng thì tốt, để cho đỡ mang tiếng dân ngụ cu. Mình là ngụ cu thật, nên mới có cái nhà thờ ở “Nhiều”, chứ gốc nhà mình ở Bình Ngô, Thuợng Vu co. Hồi truớc chị không biết chuyện Đẻ bị ngã từ thềm xuống sân khi nghe chị bị bọn bên kia sông bắt. Đuợc tha về là hàng trăm chuyện liên tiếp phải lo cho đám cuới, không ai có thì giờ kể cho nhau nghe chuyện ở nhà lúc đó ra sao.”
Đó là chị chuyển qua chuyện bị bọn bên kia sông về bắt, tức là chuyện lấy chồng của chị. Bọn bên kia sông tức là Ủy Ban Hành Chính của Việt Minh đang kiểm soát vài làng bên kia sông, noi chính quyền quốc gia lúc đó chua lập đuợc tề. Câu chuyện khởi đầu do sự tình cờ biết chị Thảo, một ông thông dịch viên cho lính Pháp trên bót Hồ, còn gọi là đồn Lạc Thổ, muốn hỏi cuới chị. Tên ông ấy là Phan Huy Chuong. Bên Việt Minh biết chuyện, về mang chị đi để làm áp lực đòi thả đám du kích xã bị trên đồn bắt.
“Chị bị bắt vào một đêm tháng Muời Một ta, gần Tết. Chị bị bắt, nhốt trong cái hang nào đó 3 ngày thì nó thả về. Con ông Cả Ngoan, bây giờ nó cung ở duới này này (khu chợ Truong Minh Giảng). Nó kể lại là:
“Hôm bắt Bà, con cung theo về, con là giao liên.”
“Nó theo cộng sản, chỉ là du kích thôi.
“Cái chuyện anh Chuong muốn cuới, chị có biết gì đâu. Mấy lần chị theo Đẻ đi Hà Nội lấy hàng. Hôm nào cụ không đi đuợc, sai chị đi một mình. Cụ bảo cứ đến chỗ đó, chỗ đó, chị vẫn đi lấy sợi cho cụ. Năm đó chị mới 16 tuổi. Một hôm sửa soạn đi lấy sợi, mới ra đầu làng thì lính vây cổng làng, xua hết cả về. Mọi nguời về chỗ đầu làng, chỗ truờng học, một bên là điếm canh, giữa là đình, một bên là văn chỉ thờ các danh nhân. Bọn lính xua mọi nguời vào văn chỉ ngồi. Bọn con gái làng mình xua nay có bao giờ đuợc đi Hà Nội, thấy mình đi Hà Nội hoài, nhân co hội này mới ngồi tụm lại, nói:
“Cô oi cô, cô kể chuyện Hà Nội cho chúng con nghe. (Thầy tôi dạy học - chữ nho, Bố hay Chú, Bác các cô gái này đều là học trò cụ, nên các cô ấy theo tục lệ gọi chúng tôi là cô, chú.)
“Mình từng đi Hà Nội rồi thì cung chẳng sợ gì lính, còn mấy nguời nhà quê thì sợ lính lắm. Thành ra mình cứ nói chuyện với chúng nó, cô cháu nói cuời rúc rích với nhau, chẳng còn biết sợ gì cả. Sau này chị biết anh Chuong lúc đó đứng ngoài gốc nhãn, nhìn qua hàng rào tre, thấy mấy cô gái nói chuyện hồn nhiên mà cuời rúc rích. Anh ấy thấy có mình chị để răng trắng. Hôm đó kiểm mục (còn gọi là điểm mục), 19 nguời trong làng bị bắt.
“Về đồn, anh Chuong nhờ lính hỏi các nguời bị bắt về cô răng trắng. Những nguời bị bắt lại hỏi thân nhân lên đồn thăm nuôi xem cô gái đó là ai.  Mấy ngày, các ông ấy nghi không ra ai. Rồi ông Lý Quỹ có con bị bắt, mới đoán ra chắc là cô Thảo rồi. Làng mình chỉ có con cái cụ Mền có nguời không nhuộm răng. Chị Thiện, Kiệm nhuộm hết, chỉ có mình chị không nhuộm.
“19 nguời bị bắt không oan chút nào, toàn là du kích xã, nên rất khó đuợc tha. Trong đó có con ông Lý Quỹ, con ông Lý Tẩm, tất cả đều là con học trò Thầy. Anh Chuong hồi đó hình nhu chỉ là thu ký hay thông ngôn, rất thân với viên xếp bốt là tên quan ba Tây. Hôm đó nó rủ anh Chuong đi về làng choi chứ không phải việc của anh ấy. Sau này anh ấy bảo là do duyên số, lúc nghe thằng xếp rủ, anh không muốn đi, vì đi xuống làng mình anh ấy sợ lắm.
“Lần hồi, anh ấy hỏi đuợc ông Lý Quỹ. Ông ấy nói rằng, nói kiểu khoác lác ấy:
“Cô này thì tôi biết là ai rồi. Nhung bây giờ ông muốn lấy cô ấy thì không có dễ, vì cô ấy là con của ông thầy dậy chúng tôi. Nếu ông muốn, ông phải làm tờ khai nhu là khai tam đại.
“Ông Lý Quỹ về kể cho mình nghe nguyên văn mấy chuyện ông ấy sỏ lá trên đồn. Ông Lý Quỹ bắt anh Chuong làm bản khai, phải trả lời mấy điều sau: Truớc đây ông nội ông làm gì, bố ông làm gì, gia đình ông ở đâu, rồi chuyện này chuyện nọ phải khai hết ra giấy. Sau anh Chuong kể lại: Anh ấy cung khai, nhung khai không đúng. Thí dụ biết nhà mình là nhà giáo, thì khai bố anh ấy dậy học. Thực ra bố anh ấy không dậy học, chỉ có đi buôn thôi, làm chủ thuyền buôn thôi. Anh ấy giận ông chú bà bác ở Hà Nội, không dám khai có nguời ở Hà Nội. Họ là những nhà buôn Bảo Thịnh ở Hà Nội. Anh ấy giận họ nên bỏ đi lính. Rồi anh ấy tính lấy vợ nhung không muốn nhờ mấy nguời đó.”
“Thế rồi cả tháng trời, thấy Đẻ, Chị Tú, anh Tho, cứ buổi sáng thì lên trên bốt, buổi chiều về nhà mình, thì thào chuyện gì mà chị không biết. Cho đến một hôm anh Tho mới gọi chị nói:
“Này em oi, anh hỏi này, bây giờ có nguời muốn hỏi cuới em thì em nghi sao?”
“Em nghi sao ạ. Em còn bé thế này biết gì chuyện đó. Nhung mà em mà đi rồi lấy ai trông nom các em cho Đẻ em?
“Đó là cuối năm 1949. Nghe chị trả lời xong, lại thấy anh ấy nói: Thôi em ạ.
“Mình cung lấy làm lạ. Anh hỏi mình xong lại nói thôi.  Ngay từ năm 13 tuổi, ông Hai Giáp đã hỏi chị cho con ông ấy rồi. Lúc Thầy mất xong, mấy mẹ con dắt díu nhau chạy loạn, cung là cách tha phuong cầu thực vì ở nhà quê loạn lạc luôn, mình không biết làm gì để sống. Khi đi (chạy loạn) Đẻ có nói chuyện với ông Hai Giáp:
“Lúc truớc tôi nhận lời thì cung là chiều ý Cụ nhà tôi. Bây giờ mấy mẹ con tôi đi thế này biết sẽ ra sao. Thôi ông ở nhà cứ lo chuyện vợ con cho cậu ấy đi.
“Bây giờ trở lại làng, nghe anh Tho nói chị cứ tuởng hay là ông Hai Giáp lại đòi cuới vợ cho con. Thành ra mới nói với anh Tho:
“Thằng bé đó nó kém em hai tuổi. Lúc đó, Thầy coi tử vi cứ sợ số em gian truân nên bắt Đẻ em phải bằng lòng đấy chứ.
“Nghe vậy anh Tho cung ừ hử. Hôm sau, anh Tho lại gọi chị, đua chị cái ảnh của một nguời lính. Thực sự anh ấy mặc  quần áo thuờng dân thôi, nhung có đeo một cái gì đó mà chị nhận ra là lính. Chị mói hỏi:
“Thế này là thế nào hở anh?
“Anh Tho nói: nguời đàn ông này muốn kết bạn với em.
“Chị lại hỏi: Thế nguời ở đâu vậy anh?
“Anh chỉ lắc đầu nhè nhẹ: Sau này anh sẽ nói.
“Thành ra các ông các bà ấy bàn chuyện chồng con của mình cho chín muồi rồi mới cho mình biết.
“Mấy hôm sau, mùa lạnh, đêm nằm bên cạnh mẹ, Đẻ mới nói chuyện với chị. Chị cung thủ thỉ với Mẹ:
“Đẻ ạ, bây giờ Đẻ bảo con lấy nguời đó, mà nguời ở xa tận đẩu tận đâu, không biết gốc gác ra sao, nguời ta lấy con xong nguời ta mang con đi mất, Đẻ biết đâu mà tìm. Rồi lính tráng đấy, Đẻ thấy mấy đứa lính bốn năm vợ, làm sao con biết đuợc.
“Đẻ mới nói: Ông Lý Quỹ nói với Đẻ thế này: Hạnh phúc của em ấy là hạnh phúc của chúng con. Chúng con đã xem kỹ rồi, đã điều tra tông chi họ hàng rồi. Ông này cung là nguời có ăn có học đàng hoàng, mà tử tế lắm. Con xin Cô cứu lấy các cháu. Con đã hứa là nếu làm mai đuợc con sẽ xin cho 19 nguời bị bắt về. Bây giờ Đẻ cung chẳng biết quyết định làm sao. Đẻ, anh Tho, Chị Tú bàn tính, thấy nó cung là nguời con nhà tử tế, viết cái thu về kể gia đình nó nhu vậy, nhu vậy, thì thấy cung đuợc. Đẻ đã quyết định rồi, trả lời bằng lòng gả cho nó rồi. Con để Đẻ lo, đừng có lo. Nhà mình có con Khẩn cung bị bắt, chẳng biết làm sao.
“Đuợc vài hôm, thấy ông Lý Quỹ nói dẫn tiền về để Cụ đi mua sắm cho cô dâu, còn phần lễ nghi, trên đó nhờ các ông ấy hết. Các ông ấy sẽ mua trầu, mua cau mang đến.
“Đúng là chị khóc hết nuớc mắt. Em thì còn bé, mẹ thì vất vả quá. Bây giờ rồi biết mình đi đâu. Mai kia làm sao còn liên lạc với nhau. Lúc đó nguời dân mình ghét lính lắm, nhất là mình con nhà nho, càng ghét bọn họ tợn. Nhà mình có chị Tỵ (con Mẹ Già) lấy ông Đội Hoằng, cả họ chế riễu. Lúc chị lấy anh Chuong xong, chị Hoằng có làm mấy câu tho gửi cho chị:
“Chị em ta là gái,
Chí chẳng khác gì trai,
chán nỗi đời ngang trái,
nên đặt buớc lạc loài.
Vui lòng theo thời thế.
Có một hóa nên hai.
Buớc đuờng ta phải để,
tạo hóa tính không sai.”
Lúc đó chị còn nhỏ lắm nhung cung hiểu đuợc ý chị muốn nói gì. Truớc đây tuởng chỉ có mình chị ấy lấy lính, bây giờ hóa ra hai nguời.


Chị Tôi
3
Lúc đó tôi đuợc 6 tuổi. Đã đi học truờng làng, nhung tuổi tho tôi không luu lại chút ký ức gì về chuyện đánh đinh, đánh đáo, bắt dế, thả diều ... Có một lần nghe xúi dại của cậu em họ lớn tuổi, tôi và Mật, cung là em họ bằng tuổi tôi, leo lên bè chuối để họ đẩy ra giữa ao. Nghe tiếng Đẻ tôi thất thanh kêu cứu, gọi nguời kéo bè chuối vào, từ đấy tôi không đi choi lang thang nữa. Đẻ còn đánh Chị Thảo, anh Tuờng mấy roi về tội không trông em, càng làm tôi thuong anh chị, cứ ru rú trong nhà. Sau này, Đẻ tôi gửi anh Tuờng đi Hòn Gay học, ở nhà bác Khâm thì phải. Còn 3 mẹ con  ở quê, sống chật chội trong túp lều tranh góc vuờn chuối. Túp lều chỉ kê vừa đủ một chiếc giuờng tre, góc nhà để một cái hòm (ruong) bằng gỗ tạp, có khóa. Ba mẹ con ngủ chung trên giuờng, nên hôm chị Thảo bị bên kia sông về bắt, tôi bị dựng dậy để gửi lên nhà trên vì Đẻ tôi hôm đó đi Hà Nội. Tôi không chịu ngủ noi khác, chị Thảo phải gọi mấy đứa cháu xuống ngủ với chú.
Tôi nhớ rất rõ cái đêm hôm đó. Nửa đêm, vẫn là mấy nguời quen về vào lúc ban đêm, dăm bữa nửa tháng họ thuờng về gặp Đẻ tôi, lúc thì lấy tiền, lúc lấy gạo, lấy vải nhựa, quần áo, thuốc men.  Sau này tôi hiểu Đẻ tôi là “Mẹ chiến si”, thuờng (bị bắt buộc) đóng góp nuôi quân. Đêm đó họ cung về nhung thái độ hung hăng. Những lần truớc họ bế tôi lên, có khi cúi đầu làm ngựa cho tôi cuỡi dù tính tôi xua nay không quen kiểu choi đó. Họ thuờng thân mật hỏi tôi học hành ra sao, sau này lớn lên có đi kháng chiến không. Lần này khi thấy tôi khóc bám lấy chị Thảo, họ dằng tôi ra, quát lên bảo tôi im, quẳng tôi vào giuờng. Họ không còn gọi tôi là chú mà nói thằng bé này có yên không thì bảo. Bố họ thuờng là học trò Thầy tôi. Học trò coi con thầy nhu em, con của học trò phải gọi chúng tôi là cô, chú. Hôm đó tôi là “thằng bé này”. Chị Thảo kể chuyện đêm đó nhu sau:
“Mấy hôm sau cái đêm nói đã quyết định gả chị cho nguời ta,  Đẻ đi Hà Nội để mua vải may quần áo. Ngay cái đêm Đẻ đi, bọn nó ập vào bắt chị. Đẻ tính đi mua vải về may vội mấy cái áo cho mọi nguời. Đó là đêm mùng 7 tháng 11 ta, mà ngày đón dâu là ngày 9, tức là chỉ còn 2 ngày. Nửa đêm nó về bắt chị. Đúng là thật hoang mang sợ hãi. Nhung chị cung gan lắm, chẳng khóc gì cả, nhung thuong em vì em khóc quá, sau phải gọi anh Tho hay là mấy đứa cháu Cần, Kiệm, Thiện gì đó xuống với chú. Bọn du kích đua chị ra đò, đi qua ngay bờ sông bên kia, ngay làng Quảng Lãm bên kia sông. Đó là sông Hồ. Đi qua bến đò Dậu, còn gọi là bến đò Thị Mão. Qua đến bên kia sông là mấy thằng du kích, có con thằng Mõ, nó cung gọi mình là chị. Gọi chị, xung tôi. Mình tức quá, chẳng thằng nào còn gọi mình là cô nữa, không thằng nào còn xung con, cháu với mình nữa. Đó là điều rất sỉ nhục mình. Thế mới biết đầu óc mình ngày xua phong kiến. Đến noi, thằng con bà Đáng, thằng Liêm, nó là chủ tịch xã. Mình nhìn thấy nó thì biết nó con nhà ai, cung biết nó là con rể ông Phó Chiên. Ông Đáng là em anh chánh Đền, chánh Đền thì là học trò Thầy. Bà Đáng thì là chị của bà hai Lâm, cả nhà ấy dòng họ Lê Doãn, vốn mang mối hận họ Đỗ. Họ đã từng cuới con gái họ Đỗ về để hành hạ. Đó là con Yến, con chị cả Tú nhà mình (Anh Cả Tú là con đầu lòng của Mẹ Già, cung đậu tú tài, đã mất). Chị cả Tú đến thăm con, thấy con mặt mày xung tím, thì nhà nó nói là con Yến lấy ghế phoi quần áo rồi bị ngã. Nó còn chửi con Yến truớc mặt mẹ là chị Tú. Chị Tú về khóc với Đẻ. Đẻ nghe vậy giả vờ đến thăm cháu. Bọn nhà nó cung kể chuyện nhu kể với chị Tú. Đẻ nói thế này:
“Tôi cung có nghe chuyện chị Tú nói. Biêt cháu nó đau nên tôi phải đến thăm. Nhung mà tôi nói cho bà nghe này, cháu nó đã đuợc gả bán. Ở nhà, cả nhà nâng niu chiều chuộng, về đây là con dâu bà. Nó khôn thì bà dậy ít, dại thì bà dậy nhiều, còn nếu nó lỡ làm điều gì thì bà có chửi, hãy chửi bố mẹ chồng nó chứ bố mẹ đẻ nó đã hết bổn phận rồi.
“Cả nhà nó bị Đẻ cho một trận. Cánh nhà đó bọn nó tai ác lắm, cậy có của.
“Con nhà Đáng ngồi ghế chủ tịch xã, thì nó cứ để chị nghỉ 2 tiếng đồng hồ lại hỏi cung. Hỏi đi hỏi lại: Cô đã quen anh đó bao giờ, cô đã kể những chuyện gì trong làng cho anh ấy nghe, đã tiết lộ những gì? Mặt nó lạnh nhu tiền. Truớc đây cung đôi lần ban đêm nó về gặp Đẻ. Đó là những lúc nó cần xin cái gì quan trọng, còn bình thuờng nó cho du kích về thôi. Vậy mà hôm đó nó làm nhu nguời lạ vậy.  Có điều nó còn gọi mình là “Cô”. Nó cung nói vài ba câu chuyện muốn đàn áp tinh thần mình, nào là liên lạc với địch có thể bị nhân dân cho tử hình hoặc lao tù nhiều năm ở tận Phú Thọ, Đồng Đăng… Ngày xua chị vẫn nghe lóm Thầy giảng bài cho học trò, có cả bác thằng Đáng này chứ đâu, nhu là “uy vu bất năng khuất, bần tiện bất năng di,…”, thành ra mình cứ theo đó, nhất định không để lộ sợ hãi. Thực ra, mấy ngày bị bắt, chị không còn nhớ đến chuyện sợ nữa, chỉ lo không biết em ra sao, rồi Đẻ đi Hà Nội về sẽ xoay xở ra sao, còn chuyện nguời ta đến ruớc dâu? Không sợ, chị dõng dạc trả lời nó:
“Các anh hỏi những điều đó cung bằng thừa. Nếu có tiết lộ gì thì các anh cung đã biết. Mà nguời ta cung có cần tôi tiết lộ đâu, nguời ta cung biết.
“Lúc đó mình mới 16 tuổi mà sao cứng cáp thế. Bọn nó mới bảo nhau: Cô này kinh thật đấy. Nếu đuợc đào tạo cô ấy sẽ thành một cán bộ giỏi. Cứ thế nó hỏi đi hỏi lại. Chị chỉ một điều là tôi không biết gì hết. Tôi cung chua biết mặt nguời ta nữa. Còn các anh muốn biết về nguời ta thì cứ về làng hỏi ông Lý Quỹ, hỏi ông Biểu Chăn đấy. Thế là mấy ngày chị chỉ có khóc, không ăn uống gì cả. Bọn nó nói cô không ăn thì cô sẽ chết, còn chúng tôi, việc chúng tôi phải làm thì cứ làm. Chị nhớ là ở cái nhà đó 3 đêm 2 ngày, cung không rõ là nhà hay hang, lạnh lẽo lắm.  Ngày cung nhu đêm, 2 tiếng hỏi cung một lần. Đến đêm thứ hai, đang hỏi cung thì du kích bên làng mang qua một tờ giấy, qua vách lá chị nghe bọn nói với nhau là giấy của dân làng xin cho chị về. Giấy nói bảo đảm với nhà nuớc cho cô ấy về. nếu nhà nuớc không muốn làng tôi tan nát thì cho cô Thảo về. Chị còn nhớ thằng Đáng đọc cái gì nhu “Thập Bát Di Thuợng, Thất Thập Di Hạ…”, nghia là dân làng từ 18 tuổi trở lên, 70 tuổi trở xuống, làm giấy này xin chính phủ… Đêm thứ 3, bọn chúng cho mang chị về. Cả đi, cả về, chúng bịt mắt chị một quãng, chẳng biết là mình đi đâu, ở đâu, chỉ đến bến đò thì mình biết là bến đò nào.”
Tôi vẫn nhớ một số hình ảnh ở nhà vào những ngày chị bị bắt. Buổi trua sau đêm chị bị bắt, Đẻ tôi từ Hà Nội về. Đang đứng trên hè, nghe anh chị Tho nói bọn nó về bắt cô Thảo đêm qua, Đẻ tôi, từ trên bậc thềm, ngã sấp xuống, đè cả vào con chó đang lẩn quẩn duới sân. Tôi cung còn nhớ nhu in chuyện tôi lần đầu tiên đuợc ngồi xe nhà binh, mùi xăng thật thom tho, hình nhu là mùi của thứ xăng chứa nhiều chì, hoặc pha nhiều dầu. Mấy chục năm sau đôi khi tôi gặp lại mùi xăng đó, gợi một chút bâng khuâng. Tôi nghe loáng thoáng là tôi đi thay cô dâu và Đẻ tôi không đua con gái về nhà chồng.  Tôi chẳng rõ ý nghia chuyện này là gì. Lên đến đồn, tôi đuợc mời ngồi vào một bàn tiệc chạy dài trong căn nhà lớn. Tiệc trà, tiệc ruợu gì đó tôi không biết, chỉ biết tôi đuợc ép ăn mấy cái bánh ngọt nói là của Tây, và cảm thấy đuợc chú ý đặc biệt vì là em ruột cô dâu. Còn bé quá, biết gì là ngon đâu. Chỉ nghe mấy ông nguời lớn đi theo suýt soa ruợu ngon, bánh ngon. Cả đời dân làng chua chắc bao giờ đuợc ăn mấy thứ bánh đó. Xe nhà binh đua đi, rồi đua về. Lúc trên xe về, ai cung có vẻ buồn và lo, nói chuyện mà không dám nói to, có lẽ sợ mấy nguời lính ngồi ở buồng lái nghe. Tôi hiểu rằng vì tiệc đón dâu mà không có chị tôi, và mấy thằng Tây, mấy nguời lính trên đồn đe dọa gì đó với làng. Tôi nghe những câu nhu cả làng sẽ chết hết, cả làng sẽ ra tro. Có nguời nói đùa: Phải nói chú Bí qua xin cho cô Thảo về mới đuợc. Anh Chuong sau này cho chị Thảo biết, chính ra bọn Tây đã định đốt làng ngay hôm đón dâu mà không có cô dâu. Anh phải đứng ra xin mãi vì chuyện bây giờ không còn là chuyện của riêng anh nữa, trở thành chuyện đối đầu giữa bên đồn bót và Việt Minh ở địa phuong.
Sau khi chị Thảo đuợc thả về, trên đồn cho lính về đón chị. Tôi nhớ cả cái hôm chị tôi đi bộ ra đê, tức là hôm nguời ta ruớc dâu lần sau. Khi đến cái nghè còn cách mặt đê một quãng, mấy anh chị bảo tôi đứng ngay duới bóng cây đa trên nghè cho mát, còn chị tôi cứ đi tiép tục lên đê. Tôi khóc đòi theo, mọi nguời bảo bao giờ đón đuợc xe chạy qua, sẽ cho tôi lên xe. Lúc gặp chiếc xe nhà binh ngừng lại, mấy nguời lính đua chị tôi lên xe, tôi vùng chạy lên thì bị mấy anh chị giữ lại. Tôi khóc mãi, biết mang máng là chị đi lấy chồng, mà chị đã hứa cho tôi đi theo rồi mà. Chỉ có mấy ông lớn tuổi, rồi đứa cháu gái, con anh Tho, cung trạc tuổi chị tôi, đi theo. Tôi nghe chị Thảo kể là lúc đó họ đang hành quân, anh Chuong không muợn đuợc xe, chỉ có tiểu đội lính đi bộ về đón, sau đợi quá giang một chiéc xe nhà binh về đồn.
Chị Thảo kể lại ngay lúc bên Việt Minh thả chị về làng rồi cung còn rắc rối.
“Bọn chính quyền Việt Minh đòi Đẻ phải làm giấy cam đoan bắt con gái không đuợc theo giặc. Đẻ không chịu ký giấy. Đẻ nói rằng con tôi đẻ ra, bây giờ nó lớn nó là con của làng của nuớc, Mọi chuyện về nó làng nuớc chịu trách nhiệm, tôi không còn chịu trách nhiệm nữa. Chuyện cuới hỏi nó do làng nuớc định đoạt, tôi có đuợc định đoạt đâu. Bọn Việt Minh cung bắt chị ký giấy đòi chồng phải làm việc cho họ. Chị bảo rằng các anh có 19 nguời bị bắt không cứu nổi, nay phải nhờ đến thân tôi, tôi chua bắt các anh cam đoan gì với tôi là đã quá tốt rồi. Tôi còn nhỏ, không muốn lấy chồng. Tôi còn muốn ở nhà giúp mẹ chăm sóc các em. Nếu các anh dây dua mãi, tôi sẽ không đi lấy chồng cho các anh biết, muốn làm gì tôi thì làm. Thấy mình làm dữ, cuối cùng thì họ phải thôi. Ngay cả bố mẹ mấy thằng Việt Minh trong làng cung nói con cái họ phải bớt đòi hỏi nhà mình đi. Họ không dám la mắng gì con cái cả, chỉ nói nhỏ hẹ hon thua thôi. Họ cung sợ ban đêm bọn Việt Minh về kêu đi chùm bao tải, thả xuống sông một cái là xong. Con hay cháu gì cung thế, có còn kể ai là bố mẹ nữa đâu. Nhung theo chị chuyện làm khó dễ sau này là do hiềm khích mấy họ kia trong làng đối với họ nhà mình thôi. Họ muốn ràng buộc nhà mình đủ thứ để sau này dễ tính chuyện.
“Thế là nguời ta đã cuới chị. Khi lên đến đồn chị cứ nghi hoài, bây giờ mình phải làm gì. Mọi khi chuyện gì cung hỏi Đẻ. Rồi mấy nguời lớn cung về làng. Chị giữ con Thanh, con anh Tho, ở lại.”
Đêm khuya, hai chị em đi ngủ. Bâng khuâng hoài chuyện xua, đã chắc gì chị ngủ đuợc.

Tuợng tại Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Việt Nam ở Chicago

Chị Tôi  - 4
100 Ngày
Ngày 9 Tháng 11 âm lịch, năm 1949, tôi đóng vai cô dâu thay chị tôi trong đám ruớc dâu về bốt Hồ. Lúc đó chị tôi còn bị Ủy Ban Hành Chánh, đúng ra là “Hành Chính”, nhốt bên làng Quảng Lãm vì tội lấy chồng là địch. Bây giờ ngồi ngẫm nghi lại, hóa ra những nhóm chữ (mà nguời ta gọi là cụm từ) “Cuộc Chiến Việt Nam” với tôi không chỉ là những chữ vu vo, vô tri vô giác. Nhiều nguời có thể đọc những tài liệu về cuộc chiến Việt Nam một cách bình thản, đôi khi vô tâm. Riêng với tôi, những chữ “Cuộc Chiến Việt Nam” lại quá liên quan mật thiết đến cuộc đời tôi, gia đình tôi. Cung trong cuộc chiến Việt Nam chị tôi đuợc gả bán để cứu một số nguời Việt Minh (không rõ có đảng viên Cộng Sản nào không?) Cung trong cuộc chiến Việt Nam, Mẹ tôi sau bao nỗi uất ức của một “Bà Mẹ Chiến Si” đã cúng hầu hết của cải cho kháng chiến vẫn bị o ép đủ điều, một buổi sáng năm 1951, bắc ghế, trèo lên đứng giữa sân chửi tuốt tuột cả Hồ Chí Minh, cả Bảo Đại, rồi dắt tôi băng ngang nhiều thửa ruộng, chạy trốn khỏi làng. Tôi còn nhớ rõ sáng hôm đó trời âm u, cái âm u của bầu trời Tháng Muời, cuối thu, Mẹ tôi lôi hết chăn, màn, chiếu ra giặt và phoi đầy sân. Sau này Mẹ tôi cho biết phải làm bộ nhu vậy để “bọn nó” không nghi rằng mình đi trốn. Mọi khi đi buôn bán đều để thằng con ở nhà, hôm nay tự nhiên dắt con đi theo, dễ bị nghi ngờ, ngăn chặn. Cung trong cuộc chiến Việt Nam, ở ngoài Bắc, anh Thừa Niệm tôi bị thanh toán rồi đuợc trao giấy liệt si, anh Tho tôi bị bắn chết trên đê với tội danh vu cho là Quốc Dân Đảng. Ở trong Nam, Anh Tuờng tôi không chịu vào đảng Cần Lao, bị tống đi chết ở tiền đồn cao nguyên khi mới 27 tuổi đầu. Tất cả đều trong cuộc chiến Việt Nam. Trong gia đình tôi chỉ có một nguời có vẻ nhu sống ngoài cuộc chiến, bên cạnh nỗi khổ đau của cả gia đình, tuởng nhu chúng tôi không cùng một gia đình chăng? Và tôi, 6 tuổi đầu ngồi ăn mấy cái “bánh Tây” giữa đồn Hồ, Bắc Ninh, cung trong cuộc chiến Việt Nam. Cung trong cuộc chiến này, một thanh niên tử tế trong bọn lính tráng ở đồn đến ngồi cạnh tôi, lấy cho tôi đủ thứ đồ ăn. Đó là anh Chuong, Phan Huy Chuong, chồng chị Thảo tôi.
Chị Thảo kể về anh Chuong:
“Anh Chuong vì bực mình ông chú, bà bác ở Hà Nội nên đăng lính. Anh ấy chỉ là trung si, nhung vì học truờng chủng sinh nên giỏi tiếng Pháp. Bọn đồng đội dù cấp cao cấp thấp muốn làm giấy tờ gì bằng tiếng Pháp đề phải nhờ anh ấy. Nên chuyện anh ấy muốn cuới chị đuợc cả bọn Tây lẫn bọn nguời Việt mình trên đồn lo tận tình. Vì thế khi bọn Việt Minh giữ chị bên kia sông, trên đồn mới có lời dọa đua cho làng Đại Mão và mấy làng chung quanh là nếu trong vòng 48 giờ nữa, không đón đuợc cô Thảo lên đồn, cả mấy làng sẽ bị bỏ bom. Dọa thôi, cùng lắm là đốt làng mình chứ lấy đâu ra máy bay mà thả bom. Nhung bọn Ủy Ban Hành Chánh vẫn sợ, phải thả chị, và một tiểu đội lính về đón chị lên đồn Hồ.
“Còn chị, lên đến bốt Hồ, tâm trạng chị lúc bấy giờ rất khó diễn tả. Chị cứ tuởng nhu mình là một kẻ tù tội chua bị đua ra xử án. Chị không hề nghi đến chuyện phải chung sống với một nguời đàn ông. Ở quê thì 16 tuổi cung kể là lớn, nhung nhà mình khác, 16 tuổi mà chị nhu vẫn sống trong vòng tay Mẹ. Mấy hôm liền chị im lặng. Anh Chuong săn đón hỏi. Lúc nào cung ôn tồn. Anh ấy bảo nếu vậy là mấy ông ở làng em thêu dệt ra, ông Lý Quỹ chắc là nói không đúng. Anh cứ tuởng là em bằng lòng, nhà em bằng lòng anh mới xin cuới. Nếu vậy thì hay là thôi đi. Vì nếu mà lấy ép uổng thì cung không phải là vợ. Về sau anh cho biết là nguời Công giáo, tuy chua làm phép nhà thờ, nhung theo luật bên anh thì hai nguời phải thuong nhau mới có thể là vợ chồng. Còn nếu nhu vậy… Nói đến đó anh bỏ lửng, có lẽ câu tiếp theo phải là “anh đành trả lại em cho gia đình”. Nhung anh không nói nhu thế, mà nói tiếp: Anh phải thú thật với em là anh rất yêu em.
“Suốt mấy đêm liền chị chỉ nằm quay lung lại anh ấy và khóc. Đến lúc anh ấy nói nhu vậy, chị mới nghi thân phận mình là con gái làng quê, bây giờ đã lên cái đồn này ngủ mấy đêm rồi, đối với xóm làng dù mình có về nhà chăng nữa cung còn là cái quái gì. Nhung quả thật anh ấy không dám đụng đến nguời chị. Con cháu Thanh, con anh Tho, chị giữ lại đồn khi, lạicòn bắt nó ngủ chung phòng mà.
“Cuối cùng, chị bắt đầu thấy thuong anh Chuong, cung là lúc anh đổi đi Hải Phòng. Trong suốt thời gian điều đình với nhà mình qua mấy ông già ở làng, lúc có vẻ đuợc, anh ấy lẳng lặng xin đổi đi. Anh ấy định sẽ về ở Hải Phòng, nhung truớc đó về ở Hà Nội. Anh ấy có anh bạn là anh Đàm Quang Đột, hai nguời thuê nhà chung ở Hà Nội. Hai nguời cùng học một khóa si quan đầu tiên ở Huế. Hình nhu vì anh Chuong còn nhỏ quá, tuổi khai sao đó, nên chỉ đuợc đeo lon trung si tạm, đợi khi đủ tuổi mới là si quan, chị chẳng biết có đúng không. Khóa đó chỉ có mấy nguời ra chuẩn úy nhu anh Đàm Quang Yêu là anh của anh Đột. Chị về Hà Nội đuợc ít ngày thì Tết. Lúc đổi đi, Đẻ có mua cho mấy con gà. Mấy con gà nhốt vào lồng đua lên xe, anh ấy cứ cằn nhằn sao em xin Đẻ mấy con gà này làm gì, chật xe. Chị bảo em có xin đâu, Đẻ thuong Đẻ mua cho. Nhu thế chị ở bốt Hồ hon một tháng, khoảng ngày 25 Tháng Chạp âm lịch, chị lên Hà Nội, ở phố Ngọc Hà. Lên Hà Nội, ăn tết xong 3 ngày thì anh ấy phải đi xuống Hải Phòng trình diện. Chị ở nhà một mình, vẫn chua quen đuợc với đời sống vợ lính. Lúc đó cậu Tòan ở trên Cậu Cảo, có mấy hôm cung xuống ở với chị.  Lúc Đẻ ra ở mấy bữa, cung đỡ buồn.”
Về chuyện này tôi nhớ anh Đột có cái xe “bình bịch”, phun khói dầy đặc, tiếng nổ om xòm. Những khi theo Đẻ lên choi chị Thảo, tôi lại đuợc anh Đột cho lên yên sau, “đèo tôi đi choi một vòng”, theo cách chị Đột nói. Tôi nhớ trong ánh chiều tà, nghe tiếng xe bình bịch nổ từ xa, tôi biết anh Đột đi làm về. Tôi hồi hộp chờ đợi xem hôm nay có đuợc ngồi trên xe chạy vù vù hay không. Tôi vẫn nhớ bụi bay mù mịt, thứ bụi vàng, từ cuối dốc bay lên. Các ông (bà) văn thi si hay tả cảnh chiều tà mo mộng nên tho, cảnh bụi đuờng u uẩn tung bay theo tiếng vó ngựa của chàng kỵ mã ra đi vào noi gió cát. Riêng tôi, nhớ hoài, và còn xao xuyến đến bây giờ, về lớp bụi mờ mờ từ cuối dốc cuốn lên. Trong bụi đẫm mùi thom của xăng, mùi thom của phố phuờng ngoại ô Hà Nội, mùi thom của tỉnh thành mà ở quê không tài nào có đuợc. Chỉ riêng chuyện đuợc ngửi mùi thom đó cung khiến tôi thầm hãnh diện khi nhìn lu trẻ đồng lứa tuổi ở quê. Nhung hãy nghe chị Thảo kể tiếp về cuộc đời chị:
“Chừng một tháng sau anh Chuong về. Suốt tháng đó anh vẫn viết thu về, nói anh sẽ thu xếp ổn định ở đây thì đón em. Đồn chính của anh ở Đồ Son, nhung anh đuợc đua đi một noi là Phúc Xá để đón đồng bào hồi cu. Trong thu anh kể rằng ở đây anh cung có dịp làm việc nghia. Đồng bào về đây gặp bọn lính Tây, ngôn ngữ bất đồng, nếu không có mình họ sẽ khổ nhiều. Bọn Tây đen hoi một tí là dùng vu lực. Có anh, vì anh biết tiếng Pháp, bọn nó cung sợ anh báo cáo cấp trên, không dám hiếp đáp đồng bào mình. Trong thu, anh Chuong viết rằng đồng bào thấy anh giúp đỡ, cho tiền cho bạc nhung anh không nhận, vì anh nghi anh đuợc làm việc nghia thế này là tốt cho anh. Có một nguời cố nài ép, họ cho anh cái đàn măng đô lin, có cái đàn anh cung đỡ buồn.
 “Ngày mùng 5 TếT anh Chuong đi Hải Phòng thì cung đúng ngày 5 Tháng Hai âm lịch, anh ấy về Ngọc Hà. Hình nhu hôm đó là khoảng 23, 24 Tháng Ba duong lịch. Mấy hôm sau anh ấy đua chị đi Hải Phòng, gọi là về nhà mới. Chẳng biết nhà mới ở đâu, chỉ thấy mình lọt vào giữa một trại cau, gần đồn lính, chờ anh đi làm giấy tờ ở những đâu chả biết. Lúc đó chị mới thực sự thấy mình là vợ lính. Chán ngán, chị ngồi khóc tỉ tê một mình. Bây giờ thì thực sự xa Mẹ, xa em, cả nhà có biết mình đi đâu.  Ngồi giữa trại, bao nhiêu cặp mắt nhìn mình, thân phận vợ lính, tự nhiên mình thấy cô đon, tro trẽn truớc cái nhìn của mọi nguời. Ngay cả những nguời vợ lính khác, cả thằng Tây đi qua nhìn mình, mình cung thấy xấu hổ. Mình còn bé tí thế này sao cung đi làm vợ nguời ta. Chị cứ thế mà khóc. Anh Chuong phải an ủi. Anh ấy còn hỏi: Giờ này mà em còn khóc nữa sao? Chắc bây giờ em mới nhận biết em là vợ lính phải không? Anh ấy tinh lắm. Chị phải nói tránh ra là em đang nhớ Đẻ, nhớ em.
“Mãi rồi anh ấy mới đuợc cấp xe chở xuống Đồ Son, lên ở trên một đỉnh núi. Lính phải xuống chuyển đồ lên cho chị. Anh chị đuợc cấp cho một căn phòng giống nhu biệt thự, trông ra biển. Tối đó ăn bữa com đầu tiên ở Đồ Son, ăn với cá biển. Mấy chị vợ lính họ nấu nuớng dùm mình. Anh ấy nói mấy hôm đầu mình cứ nhờ các chị ấy. Nhung nào có đuợc mấy hôm đâu.
“Ở đuợc đúng một đêm, rạng sáng, lúc khoảng 3 giờ, 4 giờ sáng anh ấy phải đi hành quân. Đêm hôm truớc, cái anh hạ si quan khác, cấp duới anh ấy, không biết có phải họ bố trí với nhau hay không, nghia là bố trí với bọn du kích ấy, anh ta mới nói rằng khi xếp đi vắng, em làm mọi chuyện của xếp, ngày mai em phải đi tuần, xếp đi dùm em, ngày mai nhà em có giỗ, em phải về nhà. Thế là anh ta bỏ đi. Sáng hôm sau, anh Chuong đem lính đi. Anh ấy còn nói chị là anh đi thế này giống nhu đi choi, ở đây an ninh lắm. Anh sẽ ra mấy chỗ bờ biển, sẽ ra chỗ dân chài, mua cho em con cá thu tuoi.
“Anh Chuong đi môt lúc, thì nghe tiếng súng bắn. Mình còn bé quá, đã biết gì là đời lính, có hiểu tiếng súng đấy là cái gì đâu. Nhung nghe tiến súng bắn xong tự nhiên chị thấy choáng váng mặt mày, mới vào giuờng nằm. Chỉ một lúc ngắn ngủi sau, thấy hai thằng lính chạy về nói là chúng nó bắn chết hết chúng tôi rồi, ở trong đồn nghe tiếng súng mà không cho yểm trợ ...
“Thế là anh Chuong đã chết, và đầu óc chị hoàn toàn trống rỗng. Hình nhu lúc đó trí óc mình không còn khả năng ghi nhận gì cả. Chỉ nghe ai bảo làm gì thì làm cái đó. Vậy mà cuối cùng chị về đuợc Hải Phòng.
“Lúc ngồi trong nhà xác ở Hải Phòng, chị bắt đầu nhớ lại chuyện cu. Sau khi lấy nhau đuợc một tháng ba ngày anh ấy mới nói thế này: Thảo ạ, anh xin thú thật với em anh là nguời Công giáo, gia đình anh ở Phát Diệm. Bây giờ đã thông thuong đuợc với Phát Diệm rồi, anh định mọi chuyện yên ổn, chừng một năm, anh sẽ đua em về làm lễ ở nhà thờ để hợp thức hóa. Chị mới hỏi anh ấy: Sao anh không nói ngay từ lúc đầu. Anh ấy bảo nếu nói là Công giáo thì gia đình sẽ từ chối. Anh ấy đâu biết rằng gia đình mình sợ thấy mồ,  vì cả làng năn nỉ, vì 19 nguời bị bắt kia, mà nhà mình phải gả chị. Chị còn nhớ đám mấy ông chánh, ông lý đến đứng chật nhà, họ không dám ngồi vì đều là học trò Thầy, Thầy mất rồi thì Đẻ vẫn là “Cô” của họ. Đẻ ngồi trên cái ghế giữa nhà và nói. “Con tôi đẻ ra, lúc bé là con tôi, bây giờ nó lớn rồi nó là nguời làng nguời nuớc. Bây giờ làng nuớc muốn thế nào thì tùy các anh, các anh phải nhớ nó là em các anh. Chỉ xin các anh một điều, làm giấy tờ đàng hoàng là mọi chuyện do các anh định đoạt, bên nọ, bên kia có về không đuợc đổ vấy cho gia đình chúng tôi. Không biết nếu còn cụ ông nhà tôi các anh có dám đến đứng cả lu thế này không?” Phải nói là Đẻ đáo để lắm, vừa chửi họ bất tài, chuyện làng nuớc không dám đuong đầu, chỉ trông vào thân một đứa con gái,  vừa bắt họ chịu trách nhiệm hết chuyện mình phải gả con cho lính. Cung chính vì vậy, khi chị bị bên kia sông bắt, Đẻ nhất định không qua năn nỉ “Bố bọn nó, chú bác bọn nó còn là học trò Thầy, tại sao tôi phải năn nỉ mấy đứa đó” Cụ nói cứng nhu vậy mà trong lòng thì nhu lửa đốt. Chị còn nhớ rõ mà, mấy ông kia năn nỉ Đẻ, xin Cô thuong các cháu, xin Cô cứu các cháu. Chức việc trong làng, rồi bố mẹ 19 nguời thanh niên bị bắt thay nhau đến chật nhà mình. Nên lúc nghe anh Chuong nói không dám nói là nguời Công giáo vì sợ bị từ chối, chị bật cuời nhung không dám nói, sợ anh ấy khổ tâm. Mà quả thực, sau đám cuới mấy ngày, anh ấy xin trên đồn tha cho cả 19 nguời. Anh ấy đã xin cho rồi, đã cứu rồi, mà bọn chúng còn quay lại bắt anh ấy làm nội tuyến, anh ấy xin đổi đi chỗ khác ngay. Có phải vì vậy mà anh ấy bị giết?
“Không bao giờ bọn bên kia sông nói về chuyện này. Đến bây giờ họ làm nhu đây là cuộc hôn nhân bình thuờng, nhà mình gả con gái cho lính. Nhung dân làng họ biết cả. Trong làng có con dâu anh Bôn, là cháu ngoại anh Biểu Chăn, một trong mấy ông hồi đó thu xếp chuyện gả cuới chị, nói rằng anh Biểu Chăn sau này cứ dằn vặt mãi về chuyện bắt chị đi lấy chồng. Anh ấy rất tôn trọng Thầy. Thu xếp ép con gái Thầy đi lấy chồng, để chỉ mấy tháng sau, mới 16 tuổi đã thành hóa phụ, điều đó làm anh ấy đau khổ. Mấy năm truớc khi chị về thăm đuợc làng thì anh ấy đã mất. Nếu gặp đuợc thì mình cung an ủi anh ấy vài câu. Còn anh Lý Quỹ, thực sự chị không biết tên anh ấy là gì, tên Quỹ là lấy tên đứa con mà gọi theo kiểu các cụ nhà mình. Anh ấy có mấy thằng cháu nội cung làm ăn ở Sài Gòn này, vẫn đến đây, tự xung danh con là cháu nội ông Lý Quỹ. Sau họ về Bắc, không thấy vào. Suốt từ ngày Miền Nam sụp đổ đến bây giờ, bao nhiêu nguời họ hàng làng nuớc đã vào cái nhà này, chị nghe biết bao nhiêu chuyện. Họ nhà mình bị họ trù dập. Anh Thừa Niệm, rồi anh Tho, cung bị giết. Còn họ nhà mình bao nhiêu nguời bị hại. Cứ nghe anh Ngột kể truyện đủ rùng mình. Bây giờ anh Ng. vẫn hay ghé nhà mình, mỗi lần ghé, chẳng ai hỏi gì cung tự dung ngồi khai ra hết. Anh Ng., hồi mới di cu vào Nam, ở Đà lạt, bị bắt, Đẻ cung xin cho.”
Chuyện này thì tôi biết. Lúc đó là những năm 1956 cho đến 1961, tôi học truờng Trần Hung Đạo, có nguời bạn học tên là Ngọc, hình nhu Nguyễn Văn Ngọc. Ngọc có ông bố làm trong ngành cảnh sát. Một hôm ông Bố của Ngọc cho gọi tôi đến, nói muốn gặp Mẹ tôi vì có nguời bị bắt khai thân nhân ở số ... đuờng Ngô Quyền, tức là nhà mẹ con tôi ở. Đó là anh Ng. Ông Bố của Ngọc cho biết anh này chuyên đi đánh bả chó về làm thịt rồi bán, bi bắt. Mẹ tôi phải nhận là thân nhân để xin cho về. Thực ra Ng. chỉ là nguời làng, không biết có đuợc gài vào nam công tác không.
 Lúc chị tôi kể chuyện, anh Ng. cung đã  gần 70 tuổi rồi. Chị tôi nói rằng bây giờ anh Ng. lấy một nguời vợ công giáo, ông bố vợ bắt theo đạo. Anh ta cung theo đấy nhung có giữ đạo đâu. Khi ghé nhà mình choi vẫn lễ phép nhu xua. Rồi anh ấy cứ thế mà khai ra đủ chuyện:
“Hồi về bắt Bà con cung có về.
 Rồi anh kể chuyện mấy năm đó chuyên môn đi theo thằng K., chứng kiến những vụ giết nguời,
“Bây giờ nghi lại con vẫn còn sợ”, anh Ng. nói.
“Bọn nó đánh nguời ta, rồi chém đầu nguời ta, máu phọt ra văng lên tuờng.”
Anh Ng. nói là cán bộ khu vực đó giết nguời nhu giết ngóe, không gớm tay.
“Thằng T. nhà anh P. cung bị giết nhu vậy.”
Chị Thảo trở lại chuyện anh Chuong bị phục kích:
“Những nguời vợ lính có chồng bị chết hôm đó nói rõ ràng là có nội tuyến. Mọi khi những khi đi tuần thuờng là vào lúc tờ mờ sáng, chua rõ mặt nguời nhung trông xa xa đuờng đất còn thấy. Hôm đó, đi quãng hon 4 giờ sáng, trời tối om om làm sao bọn du kích biết đuợc mà phục kích. Nghi lại, chị thấy quả thực cái anh hạ sỹ quan kia có thái độ kỳ lạ thế nào đấy. Anh ta cứ nằng nặc đòi anh Chuong đi thay và phải đi từ lúc trời còn tối đen nhu vậy, lại còn lấy cớ giỗ chạp để bỏ đi truớc khi mọi sự xẩy ra, trong đồn không có ai đem quân tiếp viện. Không lẽ từ Thuận Thành, quê mình, mà bọn Việt Minh còn theo anh Chuong đến tận Đồ Son mà giết, để dấu nhẹm những tên nội tuyến ở đồn Hồ. Đó là sau này ngồi nghi lại, chứ lúc ở Đồ Son, nhu chị đã nói, chị không còn biết gì nữa, ai nói sao làm vậy. Thành ra chẳng hiểu sao chị đua đuợc anh Chuong về Hải Phòng để chôn. Đúng ra bọn nhà binh chở tất cả 8 nguời bị chết hôm đó về nhà xác ở Hải Phòng. Tất cả. Họ đua chị vào để nhận xác, anh ấy nằm quan tài cuối cùng, bên trong cùng, chua đậy nắp. Chị nhu nguời mê, không biết gì. Tuởng không còn ai, mấy nguời lính gác không biết còn chị ở trong, cứ thế đóng cửa lại. Chị ngồi cạnh quan tài anh ấy, nghi miên man những chuyện mấy tháng vừa qua, không biết chuyện nào là thực, chuyện nào là hu. Lâu lâu lại chồm lên sờ vào nguời anh Chuong, thấy lạnh ngắt, mới tin rằng anh chết thật rồi. Căn nhà xác rộng khoảng chừng 4 mét nhân 8 mét. Chị ở trong nhà xác đó với 8 cái quan tài, 2 xác chết để nằm trên cái băng ca, một nguời đàn bà, một nguời tây đen. Họ đóng cửa rồi, chị vẫn ngồi trong đó từ 8 giờ sáng, đến 6 giờ chiều họ lại mở cửa nhà xác cho ai đó vào nhận diện nguời chết. Lúc đó mấy nguời lính mới biết có chị ở trong. Mới đầu, họ hốt hoảng, tuởng chị là ma. Rồi họ mang chị ra nhà thuong, chích thuốc, cho uống sữa.  Hôm đi chôn họ đua chị ra đi theo. Chôn ngay nghia địa ở Hải Phòng.
Lấy nhau đuợc hon ba tháng (không biết có đủ 100 ngày?) chồng chị đã chết:
“Anh Chuong mất đi, bỗng dung chị roi vào vực thẳm. Khóc suốt ngày”.

Ghi chú: Ở trên, có vài tên nguời, tôi đổi đi, để tránh phiền cho những nguời còn sống ở VN.


Giỗ Tổ ở Thuờng Vu

Chị Tôi - 5
Suốt  Đời Chuyện Buồn Cuời

Sau khi Mẹ Già, chính thất của Thầy tôi, qua đời, Thầy tôi lấy Đẻ tôi. Nếu chỉ kể 4 nguời con còn nuôi đuợc của Đẻ tôi, chị Thảo là chị cả và tôi là em út. Là em út nên hầu nhu tôi gần gui với chị Thảo trong mỗi chặng đời của chị. Nếu không là nhân chứng thì ít nhất ký ức tôi cung đọng lại hình ảnh về những hoạt động của chị, những cảnh sống của chị, dù nhiều khi mo hồ, dù không liên tục nhu một cuốn phim. Nhung toàn bộ ký ức đó vẫn là một cái gì thống nhất, giữ đuợc vẻ liền lạc. Riêng thời gian mấy tháng từ khi chị dọn đi Đồ Son, rồi về Hải Phòng, rồi lên Hà Nội ở với họ hàng bên chồng trong khi chờ nhà chồng từ Phát Diệm lên tiếp xúc, tôi hoàn toàn mù tị. Ngay cả chuyện Đẻ tôi có đi Hà Nội gặp gia đình bên chồng của chị Thảo, tôi cung không hề biết chút gì. Hình nhu tôi mang máng biết chuyện anh Chuong bị chết, nhung chuyện đó lại có vẻ xa lạ với tôi. Có thể đó là giai đoạn Đẻ tôi vất vả vô cùng, buôn bán xuôi nguợc, chẳng mấy khi tôi đuợc nghe mẹ kể chuyện. Có những tháng ngày tôi ở nhờ hết nhà này đến nhà khác ở Hà Nội, những nhà họ hàng bên ngoại. Dăm bữa, nửa tháng Đẻ tôi về thăm tôi một lần, mang theo tiền, gạo gì đó đua cho ông chú bà bác đang nuôi tôi. Nên những gì chị Thảo kể duới đây hoàn toàn mới lạ với tôi:
“Anh Chuong mất đi, bỗng dung chị roi vào vực thẳm. Khóc suốt ngày. Nhung rồi bên quân đội nguời ta bảo chị phải về nhà thôi, một thời gian sau sẽ lên lãnh tiền tử tuất. Chị quên bẵng khoản tiền này, cả năm sau mẹ anh Chuong mới đua đi lãnh.
“Bên nhà binh nguời ta không có chỗ nuôi mình mãi, đuổi thì mình phải đi. Có lẽ chỉ độ một tuần sau khi chôn cất anh Chuong là chị phải đi rồi. Chị chẳng biết làm thế nào, đi đâu bây giờ.  Trong mấy tháng ngắn ngủi sống vối anh Chuong, chị biết loáng thoáng là gia đình anh ở Phát Diệm, và anh có họ hàng ở Hải Phòng, ở Hà Nội. Buồn cuời một nỗi là từ ngày lấy chồng chị chua khi nào gặp gia đình chồng. Hôm đón dâu là mấy nguời lính trên đồn và bạn bè anh là bên nhà trai. Không biết gia đình anh Chuong có biết họ có một cô con dâu là chị hay không. Hình nhu mọi chuyện xẩy ra quá đột ngột, quá gay cấn, anh Chuong chua từng thú nhận với nhà là đã cuới vợ. Nửa thế kỷ truớc chuyện lấy vợ không xin bố mẹ đâu phải chuyện đùa. mà họ là gia đình Công giáo nữa chứ. Bây giờ, nếu chị muốn về nhà chồng ở Phát Diệm thì cung không biết làm sao mà đi, làm sao tìm ra nhà chồng. Quay về quê ở với Đẻ u, thì cung phải giữ trọn vẹn đạo làm con với nhà chồng đã chứ. Thầy mình nói hoài mà, “Xuất giá tòng phu,...”, rồi “dâu là con, rể là khách”. Cậu thấy có buồn cuời không?”
Lúc chị Thảo kể chuyện này là lúc chuông nhà thờ Ba Chuông báo lễ nhất. Hôm đó cả hai chị em cùng dậy sớm. Đêm nóng quá, quạt chạy vù vù cả đêm cung không giúp tôi ngủ đuợc thẳng giấc. Chỉ Thảo nói anh Thiên, chồng chị đi lễ truớc, chị sẽ đi lễ sau lúc 5 giờ ruỡi. Chị em lại tiếp tục câu chuyện tình thời ly loạn. Có điều, tôi không thể thấy buồn cuời nhu chị cảm thấy. Có thể khi đã đến cùng cực của sự khổ đau, nguời ta bỗng thấy mọi chuyện trở thành vô nghia, thành buồn cuời chăng. và với nụ cuời dễ dãi trên môi, chị kể tiếp:
“Truớc đó chị có nghe anh Chuong nói có một nguời chú ở đuờng Cát Dài, Hải Phòng. Thế là, ôm gói quần áo gồm mấy cái quo vội, chị lên đuờng đi khắp thành phố Hải Phòng tìm ông chú anh Chuong. Còn đồ đạc ở Đồ Son nguời ta thu vén về, vẫn gửi trong kho quân đội. Chị lần mò tìm đuợc đến đuờng Cát Dài. Cứ thế, với tấm ảnh anh Chuong trong tay, chị vào từng nhà trên con đuờng đó, nhà nào chị cung vào hỏi nhà ông Tu. “
Ở đây tôi là nguời viết lại chuyện chị Thảo,  phải nói ngay những điều viết ra này hoàn toàn dựa trên lời kể của chị Thảo. Xin đừng nghi là tôi hu cấu. nếu có hu cấu là do chị Thảo lẫn lộn vì chuyện xua xẩy ra đã quá lâu rồi. Mà một chuyện đời nhu vậy, cả làng đều biết, ngay chị tôi giờ này, Tháng Hai năm 2009, vẫn còn sống ở Sài Gòn. Ai nghi, tôi xin đua điện thoại hoặc địa chỉ về hỏi tận noi cho ra nhẽ. Đôi khi, có những nguời cả cuộc đời êm ấm, không cảm đuợc nỗi khổ đau của nguời khác, không tin trên đời có những cảnh khổ nhu vậy, khi đọc chuyện tôi kể cho là hu cấu. Thôi, hãy nghe chị Thảo kể tiếp:
“Suốt mấy tiếng đồng hồ, chị lê chân nhu vậy trên đuờng phố Hải Phòng, rồi phố Đuờng Cát Dài, trong lòng thầm khấn anh Chuong giúp chị tìm ra ông chú. Đến một nhà kia, khi xem ảnh, thì đứa em con ông chú nhận ra, đem ảnh vào hỏi bố: Có một chị cầm ảnh anh Chuong chụp với hai anh em con, chị ấy nói là vợ anh Chuong. Gia đình họ mới mời chị vào hỏi chuyện, rồi ông chú đánh điện lên hỏi ở Hà Nội. Ông Tu mà anh Chuong nói ở Hà Nội chứ không ở Hải Phòng. Ở Hà Nội anh Chuong còn bà bác, gọi là bác Thịnh thì giầu lắm. Bà ta làm chủ hon ba chục căn nhà ở Hà Nội, phố Luong Ngọc Quyến, có cả  mấy tiệm vàng. Còn ông Tu chỉ có một tiệm vàng thôi. Mới nghe ông chú ở Hải Phòng nói chuyện là mình đã thấy nản rồi. Nhà mình vốn nhà nho, nghèo nàn, không quen lối hợm của nhà giầu. Tự dung lọt vào mấy nhà này, không nhận nhà chồng không đuợc, mà nhận thì nguời ta nghi sao đây.
“Thế là mình lại từ bỡ ngỡ này sang bỡ ngỡ kia, từ hoang mang này đến hoang mang nọ. Mới bỡ ngỡ vì cả làng, cả tổng ép đi lấy chồng, rồi đến bỡ ngỡ về đời sống vợ lính, chua quen, nay lại lọt vào cái bỡ ngỡ cuộc đời hoá phụ, bỡ ngỡ đi tìm bên nhà chồng. Sau khi đánh điện qua lại, có nguời từ Hà Nội xuống Hải Phòng đón chị. Ông giáo Khuê là chú anh Chuong đua chị từ Hải Phòng về thẳng số 105 phố Hàng Bạc, Hà Nội. Lần đầu tiên ờ Hà Nội chị đuợc đi xe tay, nhung không có thì giờ để nhớ xem nó làm sao. Suốt chặng đuờng Hải Phòng, Hà nội, ông giáo Khuê đã gạn hỏi chị đủ thứ chuyện. Rõ ràng là chị chẳng biết gì về bố mẹ chồng cả. Tính ra từ ngày lên đồn Hồ lấy anh Chuong là giữa Tháng 11 âm lịch, đến ngày anh Chuong mất là ngay sau Tết, không biết có đủ ba tháng hay không. Suốt thời gian đó anh Chuong cung vắng nhà, hai vợ chồng không biết nói chuyện với nhau đuợc bao nhiêu ngày, đã nói với nhau đuợc bao nhiêu chuyện? Chị đã đuợc nghe nhiều về nhà chồng đâu. Nghe ông chú chép miệng chị hiểu rằng ông đang nghi gì. Nhu thế này thì đâu có phải vợ thằng Chuong. Con dâu mà không biết gia đình chồng ra sao, bố mẹ chồng là ai. Chị đã nói em là chuyện buồn cuời mà, cả đời chị chỉ toàn những chuyện buồn cuời thôi. Đến Hà Nội, nguời ta đua chị vào nhà ở phố  Hàng Bạc nói là “để ở tạm”, bây giờ chị em mình phải thêm mấy chữ “ở tạm trong khi chờ điều tra!”. Đó là nhà bà chị cả của mấy ông chú, bà bác gia đình anh Chuong. Bà lấy cái quyền chị cả nên mọi chuyện phải có ý kiến bà ấy.
“Thế là mình roi vào tình trạng nguời ta nhìn mình nhu một thứ gái lăng nhăng. Nguời ta cứ  nghi mình bám vào con cháu nguời ta vì tiền. Chị cứ im lặng vậy thôi. Những tháng ngày này chị chỉ biết khấn Thầy, khấn anh Chuong giúp chị tìm đuợc sự bình an, giúp chị tìm đuợc gia đình chồng, để sau đó xin về với Đẻ, với các em. Đôi lúc, chị cung muốn bỏ cuộc, về thẳng nhà quê rồi ra sao thì ra. Ngày xua Thầy nói theo tử vi chị khổ suốt đời vì buớng bỉnh, nên tính buớng bỉnh bắt chị ở lại nhà chồng xem ra sao. Khi ở phố Hàng Bạc, mỗi ngày chị xin phép bà bác chồng cho đi bộ đến nhà cậu Cảo, lúc đó ở phố Cửa Bắc. Đến đó rủ cậu Toàn ra góc phố cạnh nhà. Hai chị em cứ lóng ngóng góc phố, và chị khóc. Đó là lúc đợi chờ bố anh Chuong từ Phát Diệm ra. Bố anh ấy có thuyền buôn chở cua, nuớc mắm, mắm tôm ở Phát Diệm ra Hải Phòng, Hà Nội bán. Lúc đó mấy bà, mấy ông bên anh Chuong và Đẻ, họ hàng bên mình, bắt đầu gặp nhau. Em thấy hay không, chú rể chết rồi hai bên họ hàng nhà trai, nhà gái mới gặp nhau tìm hiểu, tìm hiểu với đầy nỗi nghi hoặc trong từng lời nói, từng cử chỉ.”
 “Thực tình, sau khi ở với nhau đuợc hon một tháng chị đã bắt đầu thuong anh Chuong. Anh ấy là nguời có ăn, có học, đối xử tử tế, ngay một nguời chồng không phải là lính cung chua chắc có đuợc sự tử tế nhu vậy. Anh ấy đuợc đào tạo từ chủng sinh, sống nội trú, nên rất mẫu mực, khuôn khổ. Từ cách ăn, cách mặc. Ngay chuyện chải đầu chẳng hạn. Chải đầu xong, anh ấy lấy một cái bàn chải riêng, chải hết tóc đi, mới cắm cái luợc vào đúng chỗ của nó. Cho nên thấy thuong anh ấy, chị cung muốn về quê anh ấy một lần cho biết. Nên chị mới xin với Đẻ, xin cho chị theo về gia đình chồng. Cả họ nhà mình nói sao Đẻ dại thế, nhung lúc đó thì Đẻ cung thuong anh Chuong. Đẻ nói, dù sao một ngày cung nên nghia. Bọn nó chính thức lấy nhau, có lễ nghi đàng hoàng, có hôn thú đàng hoàng, nó muốn về nhà chồng thì làm sao mình cấm đuợc.
“Đến lúc bên nhà anh Chuong đã tìm hiểu xong nhà mình. Họ đã dò hỏi về họ hàng mình ở Hà Nội. Không biết họ có cho ai về quê tìm hiểu nhà mình không. Rồi đến lúc cả nhà mấy ông chú, bà bác quyết định thu thập đồ đạc của anh Chuong, mở ra xem có những gì. Cho đến lúc đó, chị cung chua hề sờ đến đống đồ đạc này.  Họ lục mở valy anh Chuong, bắt đuợc nhật ký của anh ấy. Anh Chuong ghi nhật ký từng ngày, kể chuyện anh ấy gặp chị nhu thế nào, anh ấy tả hình dạng chị, tả tình cảm của anh ấy. Cho đến cả chuyện anh ấy nhờ ông Lý Quỹ, chuyện anh Tho nhà mình lên tận chỗ anh ấy ở, xem xét mọi thứ. Nguời làng vẫn gọi anh Tho là ông Đám. Anh ấy ghi ngày nào ông Đám lên choi, chuyện gì, ngày nào làm gì, ngày nào gặp chuyện này chuyện nọ, ngày nào cuới. Mọi sự anh ấy ghi hết trong quyển sổ. Bấy nhờ nguời ta mới biết mình là nguời thế nào. Lúc đó họ mới coi chị là dâu.
“Lúc này họ mới hỏi chị có muốn về thăm quê chồng không. Chị bằng lòng về. Chị đã tính truớc chuyện này, đã xin phép Đẻ. Mà chuyện về nhà chồng cung buồn cuời lắm. Ông bố chồng trông còn trẻ măng, đẹp trai hon anh Chuong. Ông ta trông nhu Tây, ở thành thị chứ không ở thôn quê. Họ ngoại nhà ông ấy cung làm quan, ông nọ ông kia. Chị không hiểu sao một ông “lái nuớc mắm” trông lại sang cả thế, cứ nhu nguời làm chức này, chức nọ đàng hoàng. Bố chồng lên Hà Nội đón chị, đua về Phát Diệm. Đến Phát Diệm, chị ngồi xe kéo, vừa đỗ xe xuống là bà vợ ông ấy bỗng chau mày nhìn. Sau nghe ông bố chồng chị giới thiệu đây là vợ của Chuong, bà ấy mới có vẻ yên tâm. Sau này mấy bà trong nhà kể lại mình mới biết: Lúc em về, mợ tuởng em là nhân tình của cậu. Lúc đó mình vừa mới muời bảy tuổi chứ bao nhiêu. Mới 17 tuổi nhung đã chít giải khăn đen trên trán, lúc nào cung giải khăn đen.
“Mình là con nhà nho, cái gì cung nền nếp, lạc vào sống trong một khu vực toàn họ đạo, lại gia đình buôn bán, chị thêm một lần roi vào bỡ ngỡ. Chị loay hoay tìm cách thích hợp với nếp sống gia đình chồng, với mấy nguời anh chị em anh Chuong. Cuối cùng chị nghi cách hay nhất là lấy cớ học đạo, suốt ngày chị đi nhà thờ, suốt ngày đọc kinh. Rồi on trên bỗng dung đến, chị uớc muốn đi tu.
“Xin đuợc sống trong dòng tu kín ở Phát Diệm, lại thêm một lần chị làm Đẻ và các em khổ khi từ xóm làng Bắc Ninh về nhẫn nhịn sống ở vùng Ninh Cuờng để gần chị. Sắp lễ hai rồi đấy, chị đi nhà thờ đây”.
Nguời con chiên ngoan đạo suốt cuộc đời chỉ thấy toàn chuyện buồn cuời lặng lẽ đi bộ đến nhà thờ.  May ra chỉ khi đuợc “huởng nhan thánh Chúa”, lúc đó chị mới thấy quả thực trên đời cung có chuyện nghiêm chỉnh chăng.

Nhà thờ Ninh Cuờng. Hình Internet. Phía bên trái là khu truờng học của các cha tôi theo học lúc đó gần đó là nhà của si quan đội quân cha Từ. Ngày xua, nhà thờ và khu bên trái đon so, cổ kính hon.

Chị Tôi - 6
Ninh Cuờng – Phát Diệm

Ngày xua khi cầm quyển truyện “Đò Dọc” của Bình Nguyên Lộc, tôi có niềm tự hào nho nhỏ là mình đã từng biết thế nào là “đi đò dọc”. Cái “biết” này chỉ rất mo hồ, rất lãng đãng, vì đó là vào khoảng cuối năm 1951, khi tôi 8 tuổi, trí óc chua ghi nhận đuợc nhiều. Tôi không nhớ đuợc là Đẻ tôi, anh Tuờng và tôi lên đò ở đâu, không biết cuộc hành trình “đò dọc” khởi đầu nhu thế nào. Gọi là “đò” cung không đúng. Tôi nghe Đẻ tôi hỏi nguời ta về “ca nô” đi Nam Định. Rồi tôi lên một chiếc ca nô, đuợc sắp xếp chỗ ngồi. Tôi còn nhớ thành ca nô bằng sắt, và đó cung là điều mới lạ đối với thằng nhà quê nhu tôi, tuởng rằng cứ là thuyền, dù gọi là ca nô chăng nữa, bao giờ cung bằng gỗ (ngoại trừ cái “mu canô” mấy “ông Tây” hay đội).
Sau này, tìm hiểu sách vở, tôi đuợc biết giao thông giữa Hà Nội và Nam Định rất nhộn nhịp. Vào giữa Thế Kỷ 20, từ Hà Nội đi về Nam Định bằng đuờng bộ khoảng 90km, đuờng thủy từ bến Phà Đen ở Hà Nội đến bến Đò Quan ở Nam Định theo công ty Bạch Thái Buởi, dài 108km, đuờng hỏa xa từ Hà Nội đi về phía nam của đất nuớc, thuờng đều phải đi qua, hoặc ghé vào Nam Định. Hằng ngày trên chục chuyến xe lửa Hà Nội – Nam Định với chặng đuờng sắt dài 87km, hoặc Hà Nội đi Thanh Hóa, đi Vinh cung qua Nam Định. Xe ô tô chở khách cung hàng chục chuyến. Còn đuờng thủy thì công ty vận chuyển Bạch Thái Buởi có tàu chạy Hà Nội – Nam Định nhiều chuyến mỗi ngày. Sách vở cho  biết Nam Định là thành phố nằm ở ngã ba sông, có sông Nam Định, còn gọi là sông Đào, chảy ngang giữa thành phố, lấy nuớc sông Hồng đổ vào sông Đáy. Riêng tôi thuở đó, chẳng biết lên đò ở đâu, xuống đò ở đâu.
Tôi vẫn còn nhớ chuyến “đò” dọc này ngừng nhiều noi, tiếng nguời ta lên xuống ca nô, tiếng lợn ủn ỉn, tiếng gà quang quác trộn lẫn tiếng nguời cãi nhau dành chỗ đứng chỗ ngồi inh ỏi suốt chuyến đi. Lâu lâu  Đẻ tôi lại sai anh Tuờng mua ít quà vặt cho tôi ăn mỗi khi ca nô ghé bến dọc đuờng. Ít khi nào tôi đuợc ăn luôn miệng nhu vậy. Đêm về khuya, tiến ồn bớt dần, chỉ còn tiếng máy ca nô sình sịch đều đều trên mặt sông, và tôi chìm vào giấc ngủ (ngồi) lúc nào không biết. Tỉnh dậy, Mẹ tôi dục tôi mau chân buớc lên tấm ván bập bềnh bắc từ ca nô lên bờ đất. Tôi bám chặt anh Tuờng, cố rảo buớc nhanh vì nguời ta xô đẩy, e dè nhìn làn nuớc lăn tăn phía duới không biết lúc nào mình roi xuống. Rồi tôi cung đi thoát đuợc tấm ván nhịp nhàng lên xuống nhu lò xo, đặt chân lên mặt đất. Tôi đã đến thành phố Nam Định trên đuờng đi Phát Diệm, theo nhu lời Đẻ tôi nói với anh Tuờng. Tôi không rõ bằng cách nào Đẻ tôi đua chúng tôi từ Nam Định đi Phát Diệm, bởi vì Phát Diệm thuộc về tỉnh Thái Bình. Chỉ nhớ rằng bỗng dung buổi chiều hôm đó, duới bàu trời xám xịt mùa đông, tôi đứng giữa sân một khu nhà cung xám xịt nhu nền trời, giữa mùi nuớc mắm nồng nặc. Tôi đang đứng giữa dinh co nhà ông Chánh Trác, bố chồng chị Thảo.
Ở đoạn này của cuộc đời, ký ức tôi hoi bị rối rắm. Hoặc là Đẻ tôi đua anh Tuờng và tôi đi trọ đâu đó ở Nam Định, rồi mới đến nhà ông Chánh Trác, bố chồng chị Thảo, nói chuyện, hoặc chúng tôi đến thẳng nhà chồng chị Thảo, ở đó một hai ngày, hoặc chúng tôi đến Ninh Cuờng ở, ổn định đâu đó rồi mới đến nhà chồng chị Thảo. Bây giớ tôi không hỏi ai đuợc về chuyện này, Đẻ tôi, anh Tuờng đều đã mất, chị Thảo lúc đó trong nhà tu. Tôi xin cứ kể theo hình ảnh loáng thoáng của ký ức.
Rồi những ngày nguời lớn nói chuyện nhà trên, duới khu nguời làm, tôi nhập vào lu trẻ choi trò trẻ con. Tôi không nhớ lúc đó anh Tuờng làm gì, ở đâu. Anh hon tôi 7 tuổi, tức là anh 15, 16 tuổi. Hình nhu Đẻ tôi sai anh đi thăm anh Đội Hoằng, anh rể chúng tôi, chồng chị Tỵ, con gái của Mẹ Già. Sau này tôi biết lúc đó anh Tuờng cung gan thật, vì từ Phát Diệm đi Ninh Cuờng, noi anh Hoằng ở, không gần gì. Anh Tuờng thuê xe đạp để đi lại ở Phát Diệm và Ninh Cuờng. Anh vác cả xe đạp lên chuyến đò ngang giữa hai vùng đất đó. Phần tôi, Đẻ tôi không có thì giờ nhìn nhỏ đến tôi nhiều vì chuyện nguời lớn với nhau, chuyện bên nhà anh Chuong đua Đẻ tôi vào thăm chị Thảo ở nhà tu, cho nên đây là lần đầu tiên tôi đuợc tham dự thật đầy đủ, trọn vẹn vào cuộc choi con nít. Bọn nhỏ bày vẽ choi trò cuới hỏi, có lẽ vì biết nhà tôi đến đây cung là do chuyện anh Chuong, chị Thảo. Gọi là bọn nhỏ nhung trong đám này có cả những cô gái trạc tuổi anh Tuờng. Họ làm cỗ bàn cuới hỏi thực sự chứ không phải chỉ dùng mấy hòn đá, mấy lá cây. Chúng tôi ăn cỗ, có com nấu bằng nồi là mấy lon sữa bò, có cả rau luộc, rau xào, cả mấy con dạm, con cua muối. Đùa choi nhu thế này thì nhất rồi. Tôi quên cả tôi đang là ai, không còn giữ kẽ gì cả. Ở làng, tôi phải luôn luôn nhớ chị em tôi là cô, là chú của lu trẻ, không thể tự nhiên choi đùa chạy nhẩy với chúng. Sẽ có nhiều vị không có cái thú lần đầu đuợc “thả lỏng” trong đời một đua trẻ. Tôi vẫn hay có những đề nghị vớ vẩn với các bậc Cha Mẹ khép con cái trong vòng kỷ luật rằng đôi khi cung nên cho bọn trẻ đuợc “thật thoải mái” ít giờ đồng hồ. Chúng sẽ nhớ điều đó đến suốt đời.
Tôi đang nói về chuyện ở Phát Diệm, noi Đẻ tôi đến để nhất quyết lôi chị Thảo ra khỏi dòng tu kín của mấy Bà So. Về chuyện này chị Thảo kể nhu sau:
“Chị nhớ mãi hình ảnh Đẻ quay đi khóc khi Chị không chịu về. Chị đã vừa khóc vừa nói với Đẻ:
“Đẻ cứ tuởng nhu con đã chấm dứt đời rồi. Con không về đâu, Đẻ đừng đợi.
“Rồi Đẻ đua mấy đứa em đến. Em là đứa chị bế ẵm sái cả tay suốt bao năm trời. Nhìn em khóc mà chị đứt ruột. Không hiểu sao, có sức mạnh nào đó luôn nhắc nhở chị phải giữ vững khiến chị có thể chịu đựng tiếng khóc các em, tiếng khóc của Đẻ suốt 7, 8 tháng trời. Chị tin rằng đã đuợc Chúa ban tiếng gọi thiêng liêng. Không phải ai cung có on phúc đó. Đẻ bảo cả nhà sẽ ở lỳ đây, không về quê nữa. Chị nghi chắc là Cụ dọa đấy thôi, không lẽ Đẻ ở lỳ mãi mãi đuợc giữa vùng đất xa lạ này. Vậy mà Đẻ làm thật. Mỗi Thứ Bảy hay Chủ Nhật, Đẻ đều đến nhà dòng xin Mẹ Bề Trên cho gặp chị, lúc đầu còn đi một mình, hoặc với Tuờng, sau mang cả em. Trời mua trời nắng cung vậy, cứ nằng nặc đòi gặp chị. Lâu dần, chị không chịu gặp thì Đẻ đứng lỳ truớc cửa, lỳ lợm yêu cầu nhà dòng bắt chị ra gặp. Mẹ Bề Trên nhiều lần dùng quyền chăn dắt nữ tu bắt chị ra. Bà ấy cung thấy cảm phục đức kiên trì của một bà Mẹ Việt Nam. Bà ấy nguời ngoại quốc, nói đuợc tiếng Việt.”
Chuyện này, cho đến bây giờ tôi còn nhớ nhu in hình bóng ba mẹ con chúng tôi trên con đuờng lầy lội chạy giữa đồng ruộng trắng xóa nuớc. Mua phùn gió bấc, con đuờng “tron nhu bôi mỡ” theo cách nói của Đẻ tôi. Cả ba mẹ con phải tháo dép ra, đi chân không, thận trọng từng buớc cho khỏi ngã. Đẻ tôi chỉ tôi cách bấm ngón chân xuống lớp bùn nhão nhẹt để giữ vững mỗi buớc chân đi. Mấy ngón chân nhỏ bé của tôi bấm thế nào thì bấm cung chẳng làm hài lòng lớp đất sét đắp mặt đuờng. Anh Tuờng phải nắm chặt tay tôi, dắt đi từng buớc. Đôi khi gió giật từng con, tấm áo toi (áo mua) làm bằng lá khoác trên vai nhu muốn quật tôi ngã xuống. Đoạn đuờng khổ ải này ám ảnh tôi nhiều tháng trời. Suốt những tháng chờ đợi chị Thảo ra khỏi nhà dòng, ít nhất cung một chục lần tôi đã qua đoạn đuờng thê luong đó. Sau này, nhiều lần tôi gặp lại những khúc đuờng nhu vậy ở nhà tù Thanh Cẩm, Thanh Hóa, nhung do nhiều nguời qua lại, nhiều vết xe trâu, hoặc do tôi đang ở độ tuổi gần 40, buớc chân vững chãi, nên tôi đi qua không mấy khó khăn. Trong mấy bài tho tôi làm tặng các em Phục Quốc cùng ở Thanh Cẩm, có những câu: “… trên con đuờng em đi chắc vẫn nhiều lầy lội, bấm ngón chân cho vững hẳn lòng em tự hỏi…”, cung mang ít nhiều hình ảnh tôi từ mấy chục năm truớc. Đêm thật khuya, nhân lúc chị Thảo ngừng kể chuyện, tôi nhắc lại hình ảnh những ngày mùa đông này đã khiến chị khó cầm nuớc mắt.
Tôi đã kể chị Thảo nghe về giai đoạn sau hon tháng trời thuyết phục chị  không kết quả, Đẻ tôi quyết định ở lại Ninh Cuờng để đợi chị.  Một buổi tối năm 1951, chúng tôi gồm Đẻ tôi, anh Tuờng, và tôi đổ bộ lên một bến đò. Tiếng gọi nhau ý ới, Đẻ tôi hỏi thăm đi đâu đó, nhung nguời ta bảo đêm rồi đi không đuợc. Tôi không nhớ cuối cùng đêm đó mẹ con tôi ngủ ở đâu, có thể ngủ nhờ mái hiên một nhà nào gần bến đò, sáng hôm sau đón chiếc xe nhà binh đi nhờ vào đồn lính có anh Đội Hoằng. Anh Đội Hoằng là anh rể tôi, chồng chị Đỗ Thị Phuong Tỵ. Hình nhu lần đó có gặp cả chị Tỵ thì phải. Anh Hoằng đóng lon Trung Uý trong đội quân của giáo xứ Búi Chu, đóng ở Ninh Cuờng, thuộc về Phát Diệm. Anh ở đó với bà vợ hai, nhà ngay sát với nhà thờ Ninh Cuờng và truờng học của Cha Kiểm. Mẹ con tôi ở với anh ít ngày rồi tìm thuê một căn nhà trong khu nhà duới của một ông trùm gần bến đò, cạnh chợ Ninh Cuờng. Đẻ tôi ở đó, buôn bán, và mỗi tuần lại đi đò qua bên kia sông, đi bộ hàng chục cây số, ra tận nhà tu kín Phát Diệm để gặp chị Thảo. Ninh Cuờng thuộc Phát Diệm là một khu khác hẳn Bắc Ninh. Thế mà Đẻ tôi dắt con đến đó, thuê nhà, ra chợ buôn gánh hàng xén. Bây giờ nghe chuyện chị Thảo kể, tôi biết sau khi Thầy tôi mất, vốn liếng Đẻ tôi không có chút gì. Không biết vay muợn đâu để buôn bán. Chắc chắn chuyện ở lại xứ này hoàn toàn bất ngờ. Đẻ tôi bán hàng ngoài chợ, anh Tuờng và tôi đi học trong truờng Cha. Mỗi ngày hai lần lúc vào học, lúc về học, tôi đều đọc kinh. Tôi biết kinh Thiên Chúa Giáo từ đó. Sau này di cu vào Nam, ở trại định cu, tôi không còn bỡ ngỡ với kinh sách nữa.
Lúc đó tôi 8 tuổi đầu, nguời còm cõi, có lẽ trông giống nhu 5, 6 tuổi. Nguời ta bảo tạng nguời tôi nhu vậy. Bây giờ thì tôi biết chỉ vì thiếu ăn. Thiếu ăn, nên những hình ảnh thật tầm thuờng với nguời khác nhung vẫn in vào đầu óc tôi đến bây giờ. Có một lần, mấy anh lính Tây bị đánh ở đâu đó, chạy bán sống bán chết về đến bến đò, nguời ta đua vào nhà của ông chùm, chủ nhà noi chúng tôi thuê, vì ông ấy nói đuợc vài câu chào hỏi tiếng Tây. Ông ấy cho mấy anh lính Tây ngồi trên tràng kỷ ở nhà trên. Lần đâu tiên tôi thấy lính Tây rõ thế. Hôm lên đồn Hồ, Bắc Ninh, trong đám cuới chị Thảo, cung có mấy “ông Tây”, nhung hôm đó tôi không có sự bình thản quan sát mặt mui họ nhu bây giờ. Ông chủ nhà cho làm com để mấy nguời đó ăn trong khi chờ xe trong đồn ra đón. Tôi kể Đẻ tôi nghe chuyện họ để nguyên một cái đùi gà cho bọn Tây ăn, mà cái đùi nó cầm tay, cứ thế mà ăn, cái đùi vàng tuom, bóng nhẫy. Nghe thế, hôm sau Mẹ tôi mua nửa con gà về rán lên, cho tôi nguyên cái đùi, nhung cái đùi đã chặt ra làm mấy miếng rồi, và tôi cung không đuợc cầm tay. Đẻ và anh Tuờng ăn chỗ ức. Anh Tuờng suýt soa, sao hôm nay Đẻ hoang thế. Đúng là hoang, đến độ ông chủ nhà thấy vậy cung phải kêu lên. Chính ông ấy khi nào nhà có việc mới ăn nhu vậy.
“Hay là hôm nay nhà bà có giỗ?”
“Chẳng giỗ quải gì ông ạ. Cả năm thì cung cho con nó ăn một lần.”
Tuy còn bé, nhung tôi biết mẹ tôi đã phải tốn kém thế nào để cho con mình đừng bao giờ nhìn nguời ta ăn nữa. Từ đấy, cho đến những ngày ở trong tù Thanh Hóa, trong khi anh em bạn mỗi tối kể lể nỗi thèm ăn, tôi vẫn dửng dung. Không dám nói với mọi nguời là tôi không thèm gì cả. Làm sao ai hiểu nổi. Viết thu về cho nhà cung không biết phải nói gửi đồ ăn gì. Nhiều nguời nghi mình làm bộ. Trong mấy anh em tôi, tôi ở gần Đẻ tôi nhiều nhất. Tôi ở gần Đẻ tôi, học đuợc rất nhiều điều dù cụ không hề nói, răn, đe. Cụ và chị Thảo kể rất nhiều điều về Thầy, về Đẻ. Và tôi lẳng lặng học. Khi tôi kể chuyện “Nhà tôi năm Ất Dậu”, có nguời nói tôi hu cấu. Toàn là chuyện mẹ và chị tôi kể về Thầy tôi. Nghi lại, trong rất nhiều ngày tháng khổ cực của gia đình, hầu nhu đều vắng bóng một nguời. Chị tôi là khổ nhất vì phải chăm sóc tôi, phần lo buôn bán, kể cả buôn lậu, để giúp mẹ. Đến hôn nhân khi tuổi mới 16 cung là vì nguời khác. Không ở cùng, không sống cùng, làm sao hiểu hết. Đoạn truờng ai có qua cầu mới hay. Trong suốt những “cầu” đã qua này, đất Ninh Cuờng là noi tôi rất nhớ. Nhớ cả những buổi trua hè, Đẻ tôi từ chợ ngay sát nhà chạy về, pha cho tôi cốc nuớc chanh, tôi còn nhớ từng câu dục dã: “Uống đi con ạ. Nuớc chanh quả đấy, mà Đẻ pha với đuờng kính, mát lắm.” Hai mẹ con chia nhau cốc nuớc. Anh Tuờng ở ngoài chợ trông hàng. Đôi khi Cụ bận việc gì đó vẫn kêu anh Tuờng ra trông hàng, lâu dần anh hết nguợng, và ngoài chợ biết đến anh rất nhiều. Nhung cả phố chợ Ninh Cuờng chắc phải nhớ Đẻ tôi vì chuyện cụ đánh anh Tuờng.
Một buổi chiều nào đó, anh Tuờng thuê chiếc xe đạp, chở tôi và hai nguời bạn đi choi. Nguời ta gọi là “đèo” ba nguời. Anh Tuờng vốn là vua nghịch và liều. Tôi ngồi ngay trên ghi đông, một nguời ngồi yên sau, một nguời ngồi thanh ngang đằng truớc. Đuờng làng hẹp, chở nặng, gặp một xe đạp đi nguợc chiều, anh Tuờng loạng quạng đâm vào nguời ta, chúng tôi ngã chổng kềnh. Xe kia bị cong bánh. Vậy mà anh Tuờng không nói không rằng bợp tai ngay anh chàng lái xe kia, chảy cả máu mui. Anh kia líu quíu kéo lê xe chạy mất. Gia đình nguời ta biết đuợc, đến tận chỗ ông chủ nhà tìm. Ông chủ mới nói đó là em ông Đội Hoằng, nguời ta không muốn dính tới lính tráng, quan quyền, bỏ qua cho. Đẻ tôi nghe lao sao, bỏ chợ về, ông chủ nhà kể chuyện. Cụ vác ngay cái ghế đẩu phang cho anh Tuờng một trận. Chắc là đau lắm nhung anh Tuờng không dám khóc, không dám chạy. Ông chủ nhà phải can,
“Bà đánh thế thì cậu ấy vỡ đầu mất. Thôi bây giờ xin bà tha cho cậu ấy, và bắt cậu ta mang tiền đến nhà nguời ta đền đi, họ phải sửa cái xe mất bao nhiêu đó”.
Anh Tuờng phải mang tiền đến nhà nguời ta xin lỗi. Cụ bắt học từng câu nói (để nguời ta biết gia đình mình có học). Nhung rồi bố mẹ anh chàng kia cung mang tiền trả lại cho Đẻ tôi. Nguời dân quê mình chỉ muốn hòa bình (với bọn lính tráng), dù Đẻ tôi phân bua mãi chúng tôi là gia đình nho học. Các bà mẹ thật khổ. Anh Tuờng bị nhốt một tuần lễ, đi học về là cấm ra khỏi cửa, và tôi có bổn phận giám sát vì Đẻ tôi ở chợ. Di nhiên là làm sao tôi giám sát đuợc. Ở phần kể về “Anh tôi”, tôi kể rõ hon chuyện này.
Biết bao nhiêu là những điều để nhớ về Ninh Cuờng, noi sau này tôi biết là ổ Duy Dân.
Có lẽ chúng tôi ở Ninh Cuờng đến 7, 8 tháng trời, cho đến khi chị Thảo phải bỏ nhà tu, về với thế gian. Nhung gia đình nhà chồng rất là không bằng lòng. Chị Thảo kể chuyện thế này:
“Không thể có bà mẹ nuớc nào đuợc nhu Đẻ chúng Mình. Sao Đẻ có thể kiên trì đến thế. Mùa đông gió lạnh, mùa hè nóng bức, thời tiết thế nào cung mặc, cứ mỗi tuần cụ đều đến nhà dòng gặp chị. Hon nửa năm trời, tuần nào cung nhìn cảnh em khóc, Đẻ khóc quay đi ra cửa, làm sao chị còn sắt đá đuợc. Mẹ Bề Trên thì không thể nói gì với chị, nhung chị hiểu rằng bà cung mềm lòng truớc Đẻ. Chị lại biết rõ vốn liếng Đẻ vay muợn đuợc đã cạn dần, chua biết ngày mai các em sống thế nào đây. Chị cầu khấn suốt ngày truớc tuợng Chúa, tuợng Đức Mẹ, xin một lời khuyên giải, một biểu lộ ý Chúa. Cuối cùng chị tự hỏi rằng để Mẹ và các em khổ sở nhu vậy có phải là điều thiện hay không. Chị xin Mẹ Bề Trên cho xuất. Bà chỉ nói rằng cánh tay Mẹ luôn luôn rộng mở đón con trở lại, sau khi con lo đuợc cho Mẹ con và các em con.
“Chuyện chị xuất khiến nhà anh Chuong không hài lòng. Bố chồng chị thông cảm, nhung mẹ chồng chị thất vọng ra mặt. Không biết có phải vì nếu chị đi tu, của cải của anh Chuong, của chị, sẽ chia cho các em bên chồng, nay nếu chị xuất, họ sẽ mất những thứ đó? Hoặc giả, chuyện chị trở thành một Bà So sau này cung là điều gia đình anh Chuong hãnh diện? Để thoát khỏi mọi điều nặng nề, chị cho họ hết mọi thứ, không tha thiết giữ một thứ gì khác. Mọi thứ vàng bạc, dây chuyền cho hết. Cung để nhà anh Chuong bớt đi nỗi ê chề vì chị xuất, chị xin Đẻ cho ở lại bên nhà chồng một thời gian, Đẻ và các em về truớc, chị sẽ về sau.
“Trong thời gian chị còn ở lại Phát Diệm, có một lần bà mẹ chồng đua chị đi Hải Phòng lãnh tiền tử tuất. Lần đầu tiên chị đi máy bay, hình nhu máy bay trực thăng, chỉ ít phút đồng hồ là từ Nam Định ra đến Hải Phòng. Lãnh xong tiền tử tuất, bà ấy đánh cho chị sợi dây truyền mấy chỉ gì đó để đeo thánh giá. Rồi Ông Bà ấy cung bỏ Phát Diệm di cu lên Hà Nội vì tình hình chiến sự. Lúc đó là năm 1952 rồi, Việt Minh mỗi ngày một mạnh. Chị xin nhà chồng cho về ở với Đẻ. Truớc khi đi, chị cho nhà chồng hết mọi thứ, chỉ giữ mấy bộ quần áo đon so, và sợi dây chuyền treo Thánh Giá. Chị tự nghi, họ là nhà buôn bán, tuy giầu có đấy, nhung nhìn sự đời không qua khỏi bàn tay đeo nhẫn. Của cải này mà làm gì, Đa phần là của anh Chuong, cung do cái chết của anh ấy, để lại cho họ là hon. Vẫn cái tính nhà nho gàn đó em ạ, và chị đã phải có lúc hối hận đấy.
“Sau này, khi về gặp mẹ, chị mới thấy sao Đẻ nghèo thế, khổ thế. Chị không ngờ Mẹ mình khổ đến thế. Truớc khi về nhà, lúc ở Hà Nội, chị đến nhà ông Cảo gặp Tòan. Hai chị em mang nhau ra đầu nhà khóc. Chỉ có Toàn là lúc nào cung ung dung ở nhà Cậu Cảo, lúc này nhà cậu dọn về phố Hàng Bún Cụt. Hình nhu số 18 thì phải. Rồi chị đến thăm em, lúc đó em ở với Bác Phiệt, phố Hàng Than. Đang mùa đông, em mặc chiếc áo len xanh sờn rách. Lúc đó mình chợt tỉnh ra, tự sỉ vả mình, sao mình dám bỏ mẹ, bỏ em đi gần hai năm trời nhu vậy, để mẹ, để em phải cực khổ phân ly. Mẹ bôn ba một noi, Tuờng lăn lộn một noi, còn em bo vo hết cửa này đến nhà nọ. Em biết không, khi chị ra khỏi nhà tu Đẻ phải đua em về truớc vì cụ không còn đồng nào cả. Đẻ phải mang anh Tuờng đi gởi cậu Hiến ở Hài Phòng (Ông Ngô Trọng Hiến, sau này có nhà xuất bản Nhu Ý), mang em gửi Bác Miện ở phố Khâm Thiên, rồi gửi Bác Phiệt đang tu tại chùa Hàng Than. Phải gửi em vì Đẻ đi buôn, để em ở nhà một mìnhh không đuợc, mà cung làm gì có chỗ nào gọi là “nhà” để mà ở. Từ năm 1951, cụ đã chửi Hồ Chí Minh toáng lên ở làng rồi, làm sao dám trở về làng với lu Việt Minh đó. Bây giờ đúng là tha phuong cầu thực. Vậy mà suốt thời gian cả nhà khó khăn nhu vậy, chị cứ lần lữa ở nhà chồng. Chị nghe Bác Phiệt nói Đẻ vẫn đi Bắc Giang mua vỏ chai, tức là đi mua ve chai, rồi chở về Hà Nội bán. Bác Phiệt nói hôm nay Đẻ về, chị ra bến Nứa đón Đẻ. Nhìn Đẻ mà chị đau sót trong lòng, lúc đó chị nghi, phải chi mình mang đuợc món tiền tử tuất kia về cho mẹ, mang đuợc chỗ nữ trang anh Chuong mua cho chị về với mẹ, thì mẹ đỡ biết bao. Đẻ phải đi vay muợn khắp noi lấy vốn làm ăn. Nhiều đêm chị nghi tự tức mình, giận mình, chỉ biết khóc thầm. Mà mẹ mình không hề hỏi mình tiền bạc đâu. Có đau sót không. Rồi chị theo Đẻ đi Bắc Giang buôn hàng chuyến, có lẽ là cuối năm 1952, đầu 1953.”
Tôi nhớ lại giai đoạn này với một mớ những hình ảnh lộn xộn. Truớc hết là chuyện  đi Hải Phòng. Có thể hôm đi Hải Phòng là hôm Đẻ tôi đua anh Tuờng đến “làm việc” cho cậu Hiến, một nguời em cùng bố khác mẹ của Đẻ tôi. Lúc đó, Cậu còn nghèo, nhà ở Đuờng Cát Dài. Lần chị Thảo đi tìm ông chú của anh Chuong chắc là chua đi đến nhà Cậu. Nếu gặp nhà Cậu truớc, biết đâu đời chị, cả đời chúng tôi, có khác đi chăng. Tôi vẫn nhớ bữa com tối hôm đó ở nhà Cậu Hiến, cả mâm com chỉ có một món ốc nấu giả ba ba. Mợ Hiến nói đùa ăn thế này cho đỡ phải rửa bát đia nhiều. Cậu thì hoi băn khoăn vì có bà chị và các cháu đến ăn com. Đẻ tôi phải nói thực là đối với chúng tôi thế này là ngon lắm rồi. Với tôi, bữa com đó ngon thật. Cậu Ngô Trọng Hiến là một nhà kinh doanh giỏi, cậu bắt đầu hồi cu với việc bán thuốc dạo, nhung cách bán của cậu khác mọi nguời. Cậu làm thành những câu có vần, có điệu, giới thiệu các món thuốc, nên bán đắt hàng. Rồi Cậu mua đuợc căn nhà nhỏ, mở tiệm sách, rồi in sách. Khi vào Sài Gòn, Cậu có nhà sách lớn ở Phú Nhuận, mở nhà xuất bản Nhu Ý. Anh Tuờng ở với Cậu một thời gian, sau khi Mợ mất, bỏ đi đăng lính dù mới 17 tuổi.
Một hình ảnh khác là nhà Bác Miện ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Đẻ tôi mang tôi đến gửi ở đây. Bác Miện là anh Đẻ tôi. Tôi nhớ những khi chua ở nhà bác, mỗi lần đến thăm tôi lại chờ đợi một mùi huong rất thom, mùi thuốc phiện. Bác Miện nghiện thuốc phiện. Hiếm khi nào tôi thấy bác ra khỏi cái sạp kê giữa nhà, trên gác. Bác nằm hút thuốc phiện ở đó. Mỗi lần bác thở ra, khói ngào ngạt mùi thom. Nhiều ngừoi không chịu đuợc mùi này, riêng tôi lại thích. Sau này khi gia đình tôi ở trong hẻm đuờng Cao Thắng, Sài Gòn, ông Tổ Truởng tên Hoàng hút thuốc phiện, mỗi khi đi qua nhà ông mùi thuốc từ trên gác bay xuống thom lừng một góc hẻm. Khi Đẻ tôi mang tôi đến gửi, bác trai đã mất. Tôi ở với bác gái và các anh chị. Bữa com của nguời dân mới hồi cu ở Hà Nội cung chỉ có một hoặc 2 món. Các anh chị cứ kêu tôi là “gầy thầy com”. Lúc đó chắc tôi chua đến muời tuổi đầu. Mấy anh chị xin cho tôi đi học một truờng tu ở gần nhà. Ở Ninh Cuờng tôi đã học lớp Tu, nhung về đây, mấy anh chị cung chỉ xin cho tôi học lại lớp Tu. Mấy môn khác không sao, riêng cái món Pháp văn thì tôi mù tịt. Truờng này dậy tiếng Pháp từ lớp Năm. Lên lớp Ba họ dậy toàn bằng tiếng Pháp. Từ bé đến lớn tôi đã biết tiếng Pháp là cái gì đâu. Lúc đó đi học là một cực hình với tôi.
Ở nhà bác Miện, lâu lâu Đẻ tôi ghé về thăm. Mỗi lần về nhu vậy, Đẻ tôi lại đua bác tiền và gạo để gửi tôi. Đẻ tôi cung mang tiền và gạo đến nhà Cậu Cảo, noi gửi anh Toàn. Hình nhu Cậu Cảo cung giúp đỡ Đẻ tôi nhiều vì Cậu có việc làm, Mợ buôn bán ở chợ cung khá. Mỗi lần về, Đẻ tôi lại dắt tôi đi lang thang mấy phố gần Khâm Thiên, mua cho tôi miếng giò, miếng chả đứng ăn ngoài đuờng. Tôi không quen ăn nhu vậy, cứ chối đây đẩy. Lòng Mẹ sợ con ăn uống thiếu thốn, mà cung không đủ tiền cho con vào một tiệm ăn nào đó. Sau này, mỗi khi nhớ hình ảnh Mẹ tôi đứng ôm vai con góc phố, cái vai còm cõi của tôi, ép tôi ăn chút gì đó, tôi lại thấy nao nao nhu mãi mãi đánh mất một thứ gì chẳng bao giờ còn đền bù đuợc. Đẻ tôi khổ thật đấy, nhu lời chị Thảo từng nói.
Chuyện học lớp Tu ở Khâm Thiên khiến tôi khổ sở, Đẻ tôi bèn đua tôi đến gửi Bác Phiệt ở phố hàng Than. Bác Phiệt là chị ruột Đẻ tôi. Bác chọn cửa Phật để ẩn náu cuộc đời từ xa xua. Bác thuê một căn gác ở phố Hàng Than, lập bàn thờ nhu ở chùa. Những tháng ngày ở với Bác thật bình lặng. Mỗi lần tôi đi học về, bác bắt rửa mặt, rửa tay, rồi ngồi ăn com với bác. Com chay, phần nhiều gồm một món canh và một bát lạc (đậu phụng) kho, hay một đia đậu rán, hoặc đậu trắng luộc. Tôi ăn ngon lành nhung bác vẫn áy náy, cứ hỏi tôi có cần mua một đồng chả quế về ăn không. Bác không bắt tôi đọc kinh nhung khuyên tôi nên giữ yên lặng nhung giờ bác tụng kinh, gõ mõ. Lâu lâu, bác dúi cho một đồng, tôi đi lang thang đến đền Quan Thánh mua một gói phá xa lạc rang của chú Tàu đeo thùng thiếc đi bán dạo. Bác khen nhu thế là tốt (vì lạc rang vẫn là món chay mà). Rồi một buổi sáng mùa đông, chị Thảo đến tìm tôi. Sau đó ít lâu, đầu năm 1953, Đẻ tôi đón tôi về Mỹ Độ, phủ Lạng Thuong, noi có con sông Thuong nuớc chảy hai dòng, bên đục, bên trong.
Hon một năm ở Mỹ Độ, tôi đã kể phần nào khi kể về “Đẻ Tôi”..
Ba mẹ con ở với nhau cho đến ngày trở lại Hà Nội, chuẩn bị lên đuờng từ Bắc vào Nam. Lúc đó, lần đầu tiên từ lâu lắm rồi, cả gia đình xum họp để xuống Hải Phòng lên tàu há mồm. Mấy tuần lễ ở Hà Nội, cả nhà ở nhờ khu bếp một biệt thự của nguời bạn Mẹ tôi trong ngõ Nam Đồng. Anh Tuờng đua tôi đi ra bờ hồ xem duyệt binh và đốt pháo nhân dịp lễ quốc khánh Pháp, 14 Tháng 7. Anh cho tôi ăn một thứ quà gì đó thật lạ, anh gọi là gỏi sứa. Vừa ăn anh vừa nhìn ráo rác vì sợ lính bắt. Sau tôi biết anh là lính đào ngu. Phe Quốc gia nuớng quá nhiều lính ở Điện Biên Phủ, số đào ngu rất đông, suốt ngày có ruồng xét trên đuờng phố. Lúc đó anh Tuờng 18 tuổi. Chị Thảo cứ mắng anh Tuờng về tội làm liều, khai gian tuổi đi lính đã liều, đào ngu lại liều hon nữa.
Anh Tuờng còn nhiều chuyện liều lắm, tôi chỉ biết một phần và sẽ kể ở phần “Anh Tôi”.


No comments:

Post a Comment