 |
Từ trái: Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Giang, Trần Đại Lộc, Hoàng Xuân Sơn. Xa xa, trước cửa Quán Văn, một bạn sinh viên đang xem bảng thông báo để biết Thứ Sáu Tuần Này có chương trình gì. (Hình Đỗ Việt Anh) |
Quán Văn
Một số vị đã viết và nói về Quán
Văn, một quán cà phê giữa lòng Sài Gòn nhưng chỉ “sống” hơn nửa năm trời vào cuối
năm 1967, đầu 1968. Tôi cả nể theo mấy người bạn biết rõ chuyện thúc tôi kể lại
“sự tích” Quán Văn cho “rộng đường dư luận”. Cũng là một dịp tôi ghi lại một ít
ký ức vụn lúc tuổi thanh xuân của “Đời Tôi”.
Đang băn khoăn chưa biết bắt đầu
từ đâu về “cuộc chơi” Quán Văn, tình cờ tôi được đọc mấy hàng chữ của Nhà văn
Chu Hảo trong truyện dài “Bụi Đường” đăng ở báo “Chánh Pháp” số 82, Tháng 9,
2018, phát hành tại Quận Cam, California, khiến tôi tìm về cội nguồn sâu và xa
hơn của Quán Văn. Phải giải thích ngay hai chữ “cuộc chơi”. Tôi vẫn hình dung
cuộc đời như một chuyến “rong chơi” cho mọi sự nhẹ nhàng, cho lòng luôn thanh
thản, nên với tôi, nửa năm trời Quán Văn cũng chỉ là một cuộc chơi ngắn ngủi.
Và những điều Chu Hảo viết kéo tôi trở lại một cuộc chơi trước đó: “Nhóm Sinh
Viên Văn Hóa” và Nhà Xuất Bản “Quảng Hóa”.
Nhà Văn Chu Hảo kể chuyện một
người bạn để lại cho ông “cuốn Quân Vương
(The Prince) của Machiavelli.” Sau đó ông chú thích trong ngoặc đơn “… (sau này
tìm đọc lại tôi mới nhớ đó là bản dịch của Phan Huy Chiêm, chuyển ngữ từ bản tiếng
Pháp Le Prince). …” Điều đáng tiếc cho tôi là qua mấy hàng chữ đó, Nhà văn Chu
Hảo không ghi lại tên nhà xuất bản. Bởi vì việc in tác phẩm đó là một cuộc chơi
của tôi, nhưng không biết bản ông Chu Hảo nói đến để tên nhà xuất bản là “Nhóm
Sinh Viên Văn Hóa” hay “Quảng Hóa”, và tôi thực sự quên đã “xuất bản” bản dịch
này, dù cho từ việc in ấn mấy tác phẩm lúc đó đã nảy ra đầu mối các sinh họat của
hai nhóm này, và sau đó gợi ý cho tôi lập ra Quán Văn.
Nhóm Sinh Viên Văn Hóa
Khoảng giữa năm 1966, đến 1967,
tôi tham dự một số việc lặt vặt tại cơ sở CPS (Chương
Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường) ở góc Nguyễn
Trung Trực, Gia Long, tức là khu Đại Học Văn Khoa cũ, và cũ hơn nữa là khu Khám
Lớn, Sài Gòn. Tuy rằng làm việc trong CPS nhưng vị trí của tôi tương đối độc lập
vì hầu như không thuộc một bộ phận nào, làm những việc do tự tôi nghĩ ra sao cho
đáp ứng nhu cầu của CPS. Một trong những nhu cầu đó là tài liệu cho các sinh hoạt
của giớ trẻ học đường. Có thể coi như tôi phụ trách việc tu thư, dịch thuật,
nhưng chẳng ai trong CPS đưa ra một yêu cầu cụ thể nào cho tôi. Có lẽ do dây mơ
rễ má từ hồi Chương Trình Hè 65 khiến tôi vào làm việc cho CPS. Đa số các anh
em thành lập CPS đều thuộc giới giáo chức của Bộ Giáo Dục, CPS là một chương
trình công tác của Bộ. Mấy anh đó phần lớn cũng từng sinh hoạt trong Chương
Trình Hè 65. Riêng tôi, dù có dạy học kiếm ăn nhưng hoãn dịch với tư cách sinh
viên trường Dược, không thuộc “nhóm các Thầy”, và bây giờ nhìn lại, cũng là do
tính hay “đàn đúm”, hoặc như nhà báo Đỗ Ngọc Yến từng nói đến cái tính xung
phong, tự nguyện của Hướng Đạo, mà tôi dính với CPS, như một năm trước đó,
“dính” đến Hè 65.
Hai cái “dính” này có một sự
liên tục nào đó trong trí tưởng thằng cù lần là tôi. “Cù Lần” vì hoàn toàn mù mờ
về các sinh hoạt vũ trường, phòng trà sôi nổi trong lớp thanh niên thành thị
lúc đó. Lúc ở Chương Trình Công Tác Hè 65 tôi đã manh nha hình thành một “Nhóm
Hội Học”. Chương trình kéo dài có mấy tháng hè, ai thèm để ý chuyện hội học làm
gì, nên chuyện chẳng đi đến đâu. Đến lúc vào CPS, ý tưởng cũ được làm “mới”
hơn, và cụ thể hơn, sinh động hơn, tôi cổ võ thành lập “Nhóm Sinh Viên Văn
Hóa”. Đến bây giờ tôi vẫn cảm thấy đôi chút ngây ngô của mấy chữ này. Sinh viên
văn hóa là cái gì? Nhưng lúc đó tránh mọi lấn cấn trong sinh hoạt chính trị
chính em của thời sau 1963, tôi ghép đại mấy chữ vào với nhau. Nghĩa là “huề cả
làng.”
Học lóm từ Đàm Trường của Cụ
Nguyễn Đức Quỳnh, trong sinh hoạt của nhóm Sinh Viên Văn Hóa (SVVH) cũng có đàm
trường (thay cho hội học), nhưng việc chính là biên soạn, dịch thuật một ít tài
liệu về sinh hoạt thanh niên. Lúc đầu nhóm SVVH có một cậu học sinh là Phan Huy
Đạt, phía sinh viên có mấy bạn Nguyễn Thạc, ĐB Ái và tôi. Nghĩa là chẳng nhiều
nhặn gì do công việc quá “chìm’, không sôi động, và hoạt động thường xuyên chỉ
có Đạt và tôi. Đúng ra phải nói thế này: Sau mấy công việc thực hiện cho CPS,
tôi thấy mở ra nhiều cơ hội gây dựng sinh hoạt khác, nên lấy chuyện biên tập, dịch
thuật, và hội học làm nền để thành lập một nhóm anh em làm việc chung. Dù sao
cũng có một bản văn nho nhỏ nói về hoạt động hướng tới của nhóm (người ta gọi
là tôn chỉ, mục đích, …). Chúng tôi không dám đại ngôn nên chỉ ghi ra mấy điều
đơn giản bao gồm mấy chữ “sinh hoạt thanh niên sinh viên học sinh, tài liệu về
tổ chức công việc, tài liệu của thanh niên các nước khác, …”. Bây giờ tôi không
nhớ đã gọi bản văn đó là cái gì. Sau này, trong dịp Vũ Dũng phỏng vấn tôi cho một
chương trình phát thanh trên Đài Phát Thanh Sài Gòn tại Quán Thằng Bờm, tôi có
nhắc đến những ý tưởng chủ đạo của mấy sinh hoạt lúc đó, chẳng hạn về mấy
nguyên tắc của “đàm trường” như “tự do, tự nguyện, …”, rồi thêm những ý tưởng này nọ
cái kiểu mấy “ông cụ non” tưởng như cứ sắn tay áo lên là cải tạo cả thế giới. Nhưng
bảo tôi giờ này ghi lại mấy ý tưởng đó thì xin chịu. Đúng là một cuộc chơi. Vậy
mà cụ Quỳnh tình cờ nghe chương trình đó, đã nhắn Vũ Dũng cụ rất chịu mấy điều
tôi nói. Học lóm của Cụ mà.
Từ mấy ý tưởng vụn vặt nói trên,
và thấy được nhu cầu của CPS, tôi cùng Phan Huy Đạt xúc tiến biên soạn một ít
tài liệu. Bởi vì CPS trả tiền tôi theo sản phẩm, tùy kích thước lớn nhỏ, cần
thiết mức độ nào, mà định giá. Trên thực tế, tôi làm dự án với ngân sách dự
trù, nếu Ban Điều Hành CPS chấp thuận, tôi được thanh toán theo ngân sách đó
sau khi làm xong.
Tôi không nhớ sản phẩm nào là đầu
tiên, cái nào trước, cái nào sau, đại khái gồm mấy quyển sách, mấy tập tài liệu
ronéo, mấy chương trình sinh hoạt. Những gì tôi còn nhớ gồm một tập “Trò Chơi Ở
Trại” do tôi biên soạn, khoảng trên 100 trò chơi dùng trong các sinh hoạt chung
của giới trẻ, hầu hết là những trò chơi của Hướng Đạo, và phần lý thuyết mở đầu
của quyển sách cũng do một Huynh Trưởng Hướng Đạo soạn. Gần đây, một bạn Hướng
Đạo cho biết còn giữ một tập nhạc dành cho sinh hoạt cộng đồng cũng do tôi sưu
thập và CPS ấn hành. Tôi không nhớ tập nhạc này. Tập “Trò Chơi Ở Trại” là một dự
án lớn vì số in lên đến 10,000 quyển. CPS mua hầu hết số sách này để dùng, và
Nhóm SVVH nhận được một số tiền kha khá, đủ để tôi đi tậu một máy quay ronéo cũ.
Trình bày bìa tập sách là một bạn trẻ trong nhóm Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân
Sơn. Tôi sẽ kể về nhóm này sau, nhưng quí vị có thể tìm đọc những bài do Hoàng
Xuân Sơn viết về giai đoạn này.
Một tập sách khác, đúng ra là một
bản phóng dịch do Phan Huy Đạt và tôi thực hiện từ việc biên tập, đến đánh máy,
đó là tập “Kibbutz, Những Đoàn Quân Khai
Hoang Chiến Đấu”. Tập sách in khổ giấy viết thư (8.5 x 11), khoảng 80
trang, không nhớ in một mặt hay hai mặt. Nếu in một mặt thì chính chúng tôi in,
nếu in hai mặt chắc là chúng tôi đưa bản stencil cho Mỹ Hiệp in và đóng. Số lượng
tin khoảng 500 quyển hay hơn một ít. CPS “mua” một ít để chúng tôi có sách gửi
tặng một số Ban Đại Diện trường Đại Học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt. Tập sách này
chúng tôi gửi mấy ki ốt (kiosk - kiosque) sách trên đường Lê Lợi bán giùm. Đến
nay tôi không nhớ nguyên bản quyển sách này như thế nào, tác giả là ai, bản tiếng
Pháp chúng tôi dùng có phải bản dịch hay không, tựa quyển sách do chúng tôi tự
đặt vì hình dung như một tập tài liệu và do chúng tôi nhìn tác phẩm như một ký
sự về việc thành lập các kibbutz của người Do Thái. Chúng tôi chọn tác phẩm này
có thể là do tình hình chung lúc đó, hoặc ít nhất cũng là tình hình do chúng
tôi nhận định. Cũng có thể đó là lúc người ta nhắc đến nhiều về các “Đoàn Cán Bộ
Xây Dựng Nông Thôn.” Quyển sách này không phải là nhu cầu của CPS, và chúng tôi
cũng không làm dự án thực hiện, nhưng vẫn hy vọng “bán” được một ít cho CPS để
có kinh phí căn bản, sau đó bán ra ngoài thu lại vốn dần dần. Không phải đến
bây giờ, mà ngay lúc tập sách đó đóng xong, tôi đã biết nó được làm ra một cách
vội vã, văn chương luộm thuộm. Cái háo thắng của tuổi trẻ, sự thiếu nghiêm chỉnh
trong công việc khiến tôi chỉ muốn chuyện in ấn mau xong để “đáp ứng” (đáp ứng
cái gì? – vớ vẩn!) tình hình sinh hoạt đại học (?!) lúc đó. Ở tuổi xế chiều,
nhìn lại thời trai trẻ, nhiều khi chúng ta mới nhận ra vị trí của mình trong một
khung cảnh chính trị của một giai đoạn lịch sử. Bảo rằng mình là một con rối
thì quá đáng, nhưng quả thực nhiều chuyện tưởng là hoàn toàn do mình lại có vẻ
như đã được sắp xếp đâu đó. Và truyền thông, hoặc tuyên truyền, đã nhào nặn lên
những chặng đường này nọ cho sinh hoạt xã hội.
 |
Loạt sách "Que Sais Je ..." (Hình: Internet) |
Nhắc
lại về nhu cầu của CPS mà chúng tôi có thể đáp ứng là những tập tài liệu mỏng,
đơn giản viết về các kỹ năng hội họp, kỹ năng thảo luận, kỹ năng làm việc
chung. Sau 1963, nhiều cuộc hội họp trong giới trẻ được tổ chức từ qui mô nhỏ
đến lớn. Mấy chuyện như làm sao tổ chức họp có hiệu quả, cách tổ chức phòng họp
theo từng tính cách cuộc họp, theo số người, các dụng cụ, đồ vật, tập tài liệu,
giấy tờ dùng cho cuộc họp, … đều là những ý niệm tương đối mới mẻ trong sinh
hoạt trẻ. Từ tấm bảng đen với phấn trắng, phấn màu đến tấm bảng phủ nylong với
bút chì mỡ là một khúc ngoặc thay đổi trong sinh hoạt quần chúng. Chúng tôi
nghĩ cần cung cấp nhiều hơn cho mấy nhóm trẻ các bút chì mỡ này. Lúc đó có một
loạt sách mỏng tiếng Pháp bán rất rẻ ngoài thị trường. Các quyển sách tiếng
Pháp nhỏ in tranh các họa sĩ như VanGog, Renoir, Gaughin, … bán đầy các hiệu
sách. Bên cạnh đó có loạt sách “Que Sais Je …” cũng bán với giá rẻ mạt. (Loạt
sách này do Presses universitaires de France (PUF) xuất bản tại Pháp với những tựa sách đầu tiên
in ra từ 1941.)
Chúng tôi đi các hiệu sách
thu lượm mấy quyển này về soạn tài liệu. Chúng tôi biên soạn, đánh máy, quay
ronéo, đóng tập, và gửi đi. Đa số là tài liệu về các phương pháp làm việc chung
có thể đã được biết từ lâu ở học đường nhưng ít được nhắc đến. Một thí dụ, như
tập “Savoir d’écouter” đưa ra các kỹ năng giúp nghe được tối đa những gì người
khác đang nói, tập trung vào điểm chính, các kỹ năng đối thoại, thảo luận, ghi
chép, ghi nhớ, … Hồi âm từ mấy trường đại học ở Miền Trung về Kibbutz và những
tập tài liệu đã khích lệ chúng tôi, và ngay cả sau này khi chúng tôi lập Quán
Văn cũng vẫn nhận được thư thăm hỏi từ các bạn đó. Một vài Ban Đại Diện Sinh
Viên ở Sài Gòn yêu cầu chúng tôi cho nhiều bản in hơn …
Nối tiếp ý tưởng về một
nhóm hội học, tôi đề nghị sinh hoạt Đàm Trường do nhu cầu học hỏi của chính bản
thân tôi. Một lúc nào đó tôi sẽ trở lại hình thức sinh hoạt này vì không muốn
kéo câu chuyện lan man quá xa với điểm chính là Quán Văn. Nhưng tôi vẫn muốn
nhắc tới mấy lá thư của các bạn sinh viên ở xa gửi về hỏi han chúng tôi kinh
nghiệm chúng tôi đang trải qua. Ngoài chuyện xã giao cảm ơn, các bạn thường chú
ý vào mấy điều sau, bây giờ tôi không nhớ hết: Làm sao tổ chức một nhóm như
nhóm chúng tôi đang hoạt động? Làm sao
tổ chức một nơi sinh hoạt như Quán Văn? Đàm Trường là gì? Làm sao xuất bản
những quyển sách? Tiền chúng tôi lấy ở đâu ra? Bao nhiêu thì đủ cho hoạt động?
… Có một lá thư hỏi rõ: Có phải tiền của Phủ Đặc Ủy? CIA? Có thư đề nghị chúng
tôi cho một bản chi tiết về tôn chỉ, đường lối, tổ chức, bầu bán, … Sau này
chúng tôi phải soạn một tài liệu nhỏ, viết đơn giản, vắn tắt trong hai trang
đánh máy, về những công việc chúng tôi đang làm, làm cách nào bắt đầu, … để gửi
cho các bạn hỏi han. Nhìn chung, chúng tôi thấy việc làm của mình có ích, và
vui, nhưng từ đó tôi tính đến chuyện “ra riêng.”
Nhà Xuất Bản Quảng Hóa
Ở đầu bài viết tôi nhắc chuyện tình
cờ được đọc mấy hàng chữ của Nhà Văn Chu Hảo về tác phẩm “Quân Vương”. Không nhớ
có phải đó là tác phẩm khởi đầu cho chuyện ra riêng và thành lập Nhà Xuất Bản
Quảng Hóa? Có mấy cơ duyên đưa đẩy đến việc lập Nhà Xuất Bản. Tôi đã mang một
ít tập sách ronéo “Kibbutz” ra gửi hiệu sách để bán. Dĩ nhiên nhà sách lớn như
Khai Trí không tiện nhận lặt vặt như vậy, nên tôi tìm đến các vị chủ các quầy
bán sách ngoài lề đường. Với huê hồng thật cao, hình như 50% hay hơn, các vị đó
miễn cưỡng nhận giùm. Ai ngờ, sách bán cũng được, không đến nỗi ế chỏng ế trơ. Đó
là một cơ duyên cho tôi quen biết sinh hoạt sách báo “ngoài chợ”, dẫn đến chuyện
“phát hành” một ấn phẩm, và cuối cùng là cơ hội biết đến một người đặc biệt, vị
này thúc đẩy tôi vào nghề “xuất bản”. Cơ duyên thứ hai là có bản dịch “Quân
Vương”. Phan Huy Đạt, lúc đó đã học Đại Học thì phải, có Ông Cụ (ông Bố) đang
làm báo, và đã dịch xong quyển Le Prince, Cụ đặt tên sách là “Quân Vương”. Cụ tên Phan Huy Chiêm. Tôi biết tác phẩm này
có được nhắc tới trong chương trình giảng dạy ở Luật Khoa Sài Gòn. Tôi nói Đạt
xin cụ cho in ronéo và bán ngoài thị trường. Việc này hoàn toàn không dính đến
CPS nên tôi phải tự bỏ vốn ra, và có đưa Cụ một số tiền nhỏ nhoi. Muốn làm một
quyển sách đàng hoàng dù hình thức là ronéo, tôi nhờ Mỹ Hiệp (Mỹ Hiệp là một cơ
sở về ronéo lớn quen thuộc của giới sinh viên) lo toàn bộ từ đánh máy, trình
bày, đóng, cắt. Không nhớ số in đầu tiên là bao nhiêu, hình như 500 quyển,
nhưng tôi dặn họ giữ các bản stencil để còn in thêm. Vài tuần sau phải in thêm
thật, hình như thêm 2 lần nữa, mỗi lần đều có chút tiền “biếu” dịch giả. Tôi
không nhớ những bản in này đề tên nhà xuất bản như thế nào. Có thể vẫn là “Nhóm
Sinh Viên Văn Hóa”. Đến đây tôi được gặp “một vị đặc biệt” đã nói ở trên. Đó là
anh Thành, vẫn được gọi là “Thành Hiện Đại”. Không biết có phải “Hiện Đại” là
tên quầy bán sách của anh không? Tôi vẫn gọi quầy sách đó là “quầy sách Diệu
Tâm” vì ở ngay trước cửa Pharmacy Diệu Tâm trên đường Lê Lợi. Một hôm, nhân lúc
thu tiền bán Quân Vương ( hay giao thêm sách Quân Vương?), tôi cầm một tập nhạc
Phạm Duy xem, buột mồm nói với Phan Huy Đạt: “Mình có thể xin anh Phạm Duy
cho in một tập nhạc …” Không ngờ vị
khách hàng đứng bên cạnh vỗ vai tôi hỏi: “Anh có quen mấy ông văn sĩ, nhạc sĩ
à, có thể xin tác phẩm của họ được không?” Tôi quay lại trả lời đại: “Được chứ
anh, tôi cũng quen biết một số”. Có vẻ hơi đại ngôn, tôi nghĩ, nhưng thây kệ, mất
mát gì đâu. Sau đó là cái hẹn vào trưa hôm sau, chúng tôi sẽ gặp nhau tại quầy
sách này bàn chuyện tiếp. Tôi chẳng mấy tin tưởng vào chuyện hẹn hò này vì vị
khách hàng kia trông bề ngoài còn “đơn sơ” hơn thằng sinh viên nghèo là tôi.
Anh ta chắc hơn tôi chừng 3 hay 4 tuổi, lẹp kẹp kéo lê đôi dép Nhật Bản, quần
kaki, áo trắng không thẳng thớm gì lắm bỏ ngoài quần … Nghĩa là cũng thuộc loại
dân lang bang, ít tiền. Tuy nhiên, tôi giữ hẹn, và anh “Thành Hiện Đại” xuất hiện
trước mắt tôi lần này vẫn như vậy.
Gặp lại, anh Thành tự giới thiệu
tên, và nói quầy sách này của anh, giao cô em đứng bán vì anh bận chạy câu chuyện
phát hành. (Không biết cô em phụ đó, sau này phải cáng đáng công việc của ông
anh vì anh Thành bị “vồ quân dịch”, có phải là cô chủ tiệm băng nhạc Bích Thu
Vân trong khu Phúc Lộc Thọ ở Quận Cam?) Anh kéo tôi vào tiệm Thanh Bạch ngay gần
đó ăn trưa. Bây giờ tôi mới biết chính anh là người thúc đẩy thành lập một số
nhà xuất bản nổi tiếng lúc đó, và anh lo chuyện phát hành sách của họ. Tôi
không nhớ lắm, có thể đó là những nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Ca Dao, … Anh
khuyến khích tôi làm nhà xuất bản với sự nâng đỡ ban đầu là giới thiệu nhà in để
tôi không phải đặt tiền cọc, không phải trả tiền in trước một phần. Anh sẽ phát
hành sách cho tôi, và trả khoảng từ 35% đến 40% , có thể đến 45%, trên giá bìa
sách, nhân với tổng số sách in. Tỷ lệ tùy loại sách bán chạy hay không. Khi
sách in xong, anh đưa ngay một nửa số tiền để tôi trả nhà in, sau đó chừng 2 hoặc
3 tuần anh bắt đầu trả số còn lại. Nghĩa là tôi không phải bỏ chút vốn nào, tuyệt
vời là ở chỗ đó! Nếu tôi muốn huê hồng cao hơn, khoảng 50% trở lên, tôi phải tự
lo trả tiền nhà in trước, và chắc rằng khi in xong tôi phải trả hết thì nhà in
mới cho lấy sách ra. Thằng kiết xác là tôi dĩ nhiên thấy ngay con đường phải lựa
chọn.

Bữa ăn trưa kéo dài gần 2 tiếng,
và tôi biết thêm về nhân vật đặc biệt này. Anh kể chuyện làm việc với mấy nhà
xuất bản kia. Các ông bà văn sĩ, hoặc trí thức chủ các nhà xuất bản thường là
mù tịt về thị hiếu, thị trường ngoài đời. Anh Thành không phải người học nhiều,
nhưng anh bám sát được tình hình sách báo ngoại quốc, nhanh, nhạy về các tác phẩm
mới xuất hiện ở tận bên trời Âu, Mỹ. Anh biết được hiện nay độc giả thích loại
sách nào, những vấn đề gì. Anh cười nói: “Nhiều khi những quyển sách bí hiểm, đọc
mãi cũng chẳng biết họ nói gì, lại bán được lắm!” Anh thường là người lựa đề
tài, lựa tác phẩm để dịch, và đặt tựa cho các tác phẩm, hình dung bìa ngoài cuốn
sách. Làm việc với anh sau này, tôi hiểu được những lý luận của anh và hoàn
toàn tin tưởng ở những thẩm định thị trường sách báo của anh, khiếu thẩm mỹ đại
chúng của anh. Mãi về sau này tôi vẫn bị bất ngờ về những ý kiến, những nhận định
của anh về mấy chuyện liên quan sách báo, liên quan độc giả. Tôi muốn ghi ở đây
một khía cạnh khác của anh là lòng trân trọng với những tác giả, kể cả tác giả
“không chạy” nhưng anh biết, anh nghe nói về giá trị của ông (bà) ta, về tác phẩm,
cho dù có lần anh thú nhận “Mình cũng chẳng hiểu gì lắm những điều ông ấy viết,
cũng không khoái đọc mấy điều đó, nhưng có gặp ông ấy rồi, thấy người có lòng
quá, …” Trả lời thắc mắc của tôi rằng thế thì anh lỗ vốn sao? khi anh anh kể là có hứa với nhà xuất
bản sẽ trả tiền đều đều dù chẳng bán được
bao nhiêu, anh cười: “Nguyên tắc là anh khỏe cõng anh yếu. Mình khuyến khích
các nhà xuất bản lựa sách bán chạy, nhưng cũng giúp họ giải quyết những tác phẩm
mười năm”. Ý anh nói 10 năm may ra mới bán hết một ngàn quyển. Triết lý của anh
là “Không phải chỉ giúp các tác giả mà còn phải cho các độc giả kén sách được
có những quyển sách (lạ lùng) đó”. Người ta bảo nhà phát hành sách ăn trên đầu
trên cổ từ tác giả đến nhà xuất bản. Tôi không biết “đầu với cổ” như thế nào
nhưng ở anh Thành, tôi ngưỡng mộ anh như một người làm văn hóa. Cần một quyển
sách viết về nhà phát hành lề đường này, không một bàn giấy, không một văn
phòng, nhưng những “đầu sách” nổi tiếng lúc đó thường qua tay anh, và sau này, từ
những ngày đầu của cuộc sốn lưu vong trên đất Mỹ, anh cũng đầu têu ra chuyện
cung cấp băng, đĩa nhạc xưa cho người Việt Nam tỵ nạn.
Chúng tôi thỏa thuận quyển sách
đầu tiên của nhà xuất bản mới này sẽ là sao y bản cũ, tức bản dịch “Quân
Vương”, nhưng in tipo đàng hoàng, số in 1,000 cuốn (vì không phải loại ăn
khách), đồng thời tôi phải xúc tiến một tập nhạc Phạm Duy để trong vòng vài ba
tháng có mặt tại các hiệu sách toàn quốc. Chỉ là thỏa thuận miệng, không giấy tờ,
không ghi chép. Trước khi đứng lên, anh móc túi một xấp tiền dày cộm, tách ra một
tếp mỏng đưa tôi, nói: “Anh cầm tạm một ngàn rưởi dằn túi.” Tôi bỡ ngỡ trả lời:
“Anh Thành, anh đâu biết tôi là ai, ở đâu, chắc gì tôi lấy được các sách, truyện
để in, sao đưa nhiều thế?” Anh cười cười, nói theo kiểu bông đùa: “Tôi biết coi
tướng mà … Làm ăn, anh cần có đồng tiền dằn túi. Anh phải cà phê cà pháo với mấy
ông bà văn sĩ, nhạc sĩ, sau này anh cũng phải nhậm xà, đôi khi cưa vài chai bia
với mấy ông chủ nhà in, rồi mấy tay xếp chữ, mấy tay chạy máy, … nhiều chuyện lắm,
từ từ tôi giới thiệu, …” Tôi được một bài học vỡ lòng về “làm ăn”, dù là làm
văn nghệ văn gừng, văn chương chữ nghĩa. Tôi cảm ơn anh Thành, hân hoan ra về.
Tôi dạy học tóe khói mỗi tháng cũng chỉ kiếm được 2 ngàn đồng, đưa Mẹ tôi gần hết,
chừa lại ít tiền cà phê hủ tíu, vậy mà bây giờ trong túi bỗng dưng có một ngàn
rưởi, mà anh Thành nói trước “không tính trừ vào tiền sau này đâu”. Tôi tự hỏi
lòng sao anh này kỳ thế nhỉ. Anh ta có thể biết tên tôi (không rõ có biết thật
không), nhưng không biết tôi ở đâu, thực sự làm nghề ngỗng gì, khơi khơi đưa tiền
tiêu chơi, không ràng buộc, không cầm cố. Đáng nể thật!
Về nhà, tức là về căn phòng tôi
“chiếm” được ở khu nhà tiền chế trụ sở CPS, tôi họp anh em lại. Lúc này, Nguyễn
Thạc sau khi trình diễn độc tấu guitar cổ điển trong một chương trình bỏ túi của
Nhóm Sinh Viên Văn Hóa, cho biết có khi phải đi tìm nơi tá túc vì đã xong cử
nhân ở Đại Học, không nhớ chàng có cử nhân gì, nên thưa bén mảng đến với nhóm.
Các bạn có mặt gồm Phan Huy Đạt, Đinh Bá Ái, thêm Lưu Trọng Đạt (gọi là Đạt lớn)
đang học Vạn Hạnh. Tôi trình bày cuộc gặp anh Thành, móc túi ra 1,500 đồng Việt
Nam Cộng Hòa. Mọi người trố mắt, phục lăn. Đúng là mèo mù vớ cá rán. Tôi đề nghị,
theo khuyến cáo của anh Thành, phải có tên một nhà xuất bản. Mấy bạn Ái, Đạt Lớn
xưa nay coi chuyện sinh hoạt với chúng tôi như một cuộc vui chơi bên lề, giống
như đi pinic, cắm trại. Ái còn nhiều chuyện bên Ban Đại Diện Dược Khoa, Đạt lớn
còn lo ẩn náu ở Vạn Hạnh. Hai bạn hoàn toàn để tôi quyết định mọi chuyện, lâu
lâu cho họ tin tức kèm theo chầu cà phê, thuốc lá là đủ rồi, tức là coi như tôi đã 'báo cáo hoạt động nhóm". Tôi và Đạt nhỏ bốc
thăm giữa tên mấy cô quen biết, bốc đúng tên cô Quảng Hóa. Nhà Xuất Bản có tên
Quảng Hóa từ đấy.
Có lẽ “Quân Vương”, bản in typo,
là sách đầu tiên mang tên “Nhà Xuất Bản Quảng Hóa”. Một năm sau, hay nửa năm
sau(?), tôi mới in được tập nhạc “Thế Giới Ca (?)” của Phạm Duy. Sau đó là tập
“Những Ca Khúc Cho Ngày Mai” (vào năm 1970), … Không nhớ do những trục trặc
nào, hoặc do Nhạc sĩ Phạm Duy chần trờ trong việc chọn lựa bài để in, hoặc lúc
đó Nhạc sĩ không ở Sài Gòn, không ở trong nước, hoặc việc kẻ khuôn nhạc, xếp chữ
vào khuôn nhạc bị chậm, … mà chúng tôi không giữ đúng hẹn với anh Thành. Nhưng
cuối cùng Quảng Hóa cũng xuất bản mấy tập nhạc của Phạm Duy. Trong thời gian đó
tôi in “Những Bài Ca Khai Phá” của Nguyễn Đức Quang với sự trợ giúp của nhà in
Việt Tấn Xã do hai anh Trần Văn Ngô và Lê Đình Điểu giới thiệu, vì tập nhạc là
bản in Offset màu, in ở ngoài giá đắt hơn nhiều.
Nhà Xuất Bản Quảng Hóa do 4 đứa chúng
tôi chủ trương, không dính đến Nhóm Sinh Viên Văn Hóa. Ý tôi nói không dính về
phương diện quản trị, về tài chính, về hoạt động, và phải nói là hầu như do một
mình tôi trông nom mọi thứ từ A đến Z việc xuất bản. Nhưng thực ra, từ những bản
in ronéo thuở ban đầu của nhóm Sinh Viên Văn Hóa mới đến được bản in tipo của
Quảng Hóa. Sở dĩ tôi quyết định “không dính” dễ dàng vì trên thực tế, mọi việc
của nhóm cũng chỉ mình tôi quyết định và làm từ đầu đến cuối, Đạt nhỏ tham dự
chút ít, còn mấy anh em khác thỉnh thoảng hụ hợ cho xôm tụ. Điều thứ nhì là Quảng
Hóa không dính đến Quán Văn vì thực sự tôi không rõ lúc đó có Quán Văn chưa, kinh
nghiệm Phiếu Thân Hữu Quán Văn và Phiếu Thân Hữu Quảng Hóa, cái nào có trước.
Phiếu của Quán Văn in ronéo sơ sài, còn phiếu của nhà xuất bản in typo hai màu
đàng hoàng. Mệnh giá của phiếu Quảng Hóa là Một Trăm Đồng. Mỗi khi một tác phẩm
do Quảng Hóa xuất bản, chúng tôi gửi cho người mua phiếu và tính trừ vào trị
giá phiếu khoảng 70% theo giá đề quyển sách. Hình như có khoảng 30 vị độc giả
mua, với tinh thần giúp đỡ hơn là mua sách. Hầu hết là những anh em thân thiết.
Một vị khách mua đặc biệt là ông Trần Chánh Thành, từng có lúc là Bộ Trưởng Ngoại
Giao (thời Chính Phủ Ngô Đình Diệm?) Anh Đỗ Ngọc Yến đưa tôi đến gặp ông. Ông lịch
sự nghe tôi trình bày về nhà xuất bản, và tặng ngay Hai Ngàn Đồng, cũng chẳng
nhận phiếu vì e rằng ông sẽ để thất lạc. Hồi đó giá ngoài bìa một quyển sách
thường từ 10 đồng đến vài chục đồng. Ông nói khi nào có quyển gì hay, cứ gửi
cho ông. Các món nợ này chẳng bao giờ tôi trả được, hoặc nói theo kiểu các Cụ
Thích Ca, Khổng Tử, tôi trả bằng cách đưa người khác. Viện dẫn ý này để tự mình
bớt đi phần lúng túng, ngượng ngùng mà thôi.
Do các giao dịch trong xuất bản,
với những tình cờ gặp gỡ ngoài lề, ý nghĩ mở một sinh hoạt trình diễn “sống” đến
với tôi từ lâu nay có cơ hội thành hình. Cho nên tôi cho rằng hai nhóm sinh hoạt
chính tôi kể trên là cơ duyên cho cội nguồn sâu và đậm của Quán Văn. Đặc biệt
là nhờ vốn liếng vẫn giữ được từ khu vực xuất bản mà tôi dám mạnh dạn lập nên
Quán Văn bởi lúc ban đầu Quán Văn chưa nhận được đồng nào từ bên ngoài mà đã phải
hoạt động. Gọi là do anh em đóng góp, thực ra chỉ là tượng trưng, chắc rằng chỉ
đủ mua vài chục cái ly, còn vốn liếng chính lấy từ "Nhà Xuất Bản".
Quán
Văn
Cuối cùng, tôi xin kể chuyện
Quán Văn. Không có nghĩa chuyện Quán Văn là chuyện đến sau cùng, việc “làm Quán
Văn” là việc làm sau mấy việc kia. Nếu tôi có kể mấy việc làm kia trước, vì như
tôi đã nói bên trên, mấy việc đó là nguyên nhân sâu và xa cho chuyện hình thành
Quán Văn. Nhưng Quán Văn xuất hiện ngay từ khi mấy chuyện kia đang tiếp diễn,
đang lúc công việc xuất bản hoạt động. Bởi vì, do những sinh hoạt trình diễn bỏ
túi của Nhóm Sinh Viên Văn Hóa mà số người dự nhiều khi chỉ khoảng hơn chục người
quen biết, do những chuyện in ấn, giao dịch với các văn nghệ sĩ, trong đầu tôi
manh nha chuyện biến Đàm Trường của những vấn đề nghiêm chỉnh thành hình thức
hào hứng hơn, biến sinh hoạt trình diễn bỏ túi thành sinh hoạt đông người thưởng
ngoạn hơn. Thí nghiệm đầu tiên là buổi đọc thơ “Đêm Việt Nam” của Thi sĩ Đỗ Quý
Toàn (cũng cây nhà lá vườn, dễ tổ chức, vì ông Toàn là anh tôi.)
 |
Đỗ Tăng Bí tại Quán Văn |
Có người nhớ rằng “Đêm Việt Nam”
là một buổi đọc thơ của Quán Văn, thực ra buổi đọc thơ này xẩy ra trước khi
thành lập Quán Văn, và có vẻ như là một sinh hoạt của "Nhóm Sinh Viên Văn Hóa". Như bên trên tôi nói, đây là một buổi tụ họp lớn khởi đầu, không giống các buổi sinh hoạt khác trước đây của nhóm, chỉ chừng 20 người là nhiều. Mặt khác, trong các bài viết trên "mạng", có người xem việc mở ra Quán Văn là một chuyện tình cờ, cũng không hẳn là vậy.
Cũng như nhiều chuyện khác trong cuộc đời, tùy góc độ của mỗi người mà sự kiện
được nhìn khác nhau, và chẳng có ai sai, chẳng có ai đúng hòa toàn. Cũng có người
cho rằng Quán Văn là một sinh hoạt của CPS. Không thể nói là sai, nhưng cũng
không hẳn đúng. Từ từ chúng ta sẽ tìm hiểu thêm, và tùy cách nhìn mà gọi tên sự
việc.
Bây giờ tôi còn giữ được tấm
hình chụp một cậu em Hướng Đạo tên Sơn và tôi. Chúng tôi ườn oài trên chiếc giường
gập nhà binh kê trong “phòng tôi” ở trụ sở CPS. Trên tường ngay sát sau giường
còn căng tấm vải trắng với hàng chữ “đêm Việt”. Hình không chụp hết chiều dài tấm
banderole, có lẽ chữ đầy đủ là “Buổi đọc thơ “đêm Việt Nam””. Đàng sau tấm hình
có ghi “Đêm 30 tết Đinh Mùi.” Nghĩa là tấm hình chụp vào đêm 30 tết năm Đinh
Mùi, 1967. Theo thói quen, người ta gọi đêm giao thừa là đêm 30 tết của năm tiếp
theo. Tính đúng, đêm hôm đó nếu chưa qua 12 giờ khuya, thì thuộc năm Tỵ, chứ
không phải năm Mùi. Thực ra, năm Tỵ (1966), Tháng Chạp chỉ có 29 ngày, không có
ngày 30. Có lẽ tôi đã ghi sai theo thói quen “đêm 30” là đêm trừ tịch, trước
ngày 1 Tết năm sau. Ngày 29 Tháng Chạp âm lịch đó nhằm ngày 8 Tháng 2, năm
1967. Tấm hình giúp tôi nhớ lại không khí buổi đọc thơ trước đó ít ngày, không
nhớ rõ ngày nào, có thể trước đó mấy tuần không chừng. Tối đó, tôi nhờ cậu em tên Sơn đó đứng
bán tập thơ “Đêm Việt Nam” ngay trên lối vào phòng đọc thơ trong khu trụ sở CPS.
Chúng tôi bán ngay tối đó vì muốn “thu vốn” đươc chừng nào hay chừng đó. Sau
này, anh Toàn trả lời một cuộc phỏng vấn nói rằng tập thơ do một nhóm sinh viên
văn khoa in. Có lẽ anh quên, hay nhầm chữ Văn Hóa thành văn khoa. Như tôi nói,
muốn thí nghiệm một hình thức sinh hoạt đông đảo hơn, tôi tổ chức đêm đọc thơ. Tập
thơ không phải là một dự án của CPS mà do Nhóm SVVH in. Bìa và phụ bản của Họa
Sĩ Nguyễn Trung, nhà in Mỹ Hiệp. Sau này tôi có gửi bán tập “Đêm Việt Nam” ở mấy
quầy sách đường Lê Lợi, như mấy quyển “Kibbutz”, … (Bạn Sơn hiện (2016) đang ở Mississippi).
 |
Bí và Sơn tại CPS |
Cơ duyên của Quán Văn dễ dàng đến
hơn khi CPS tổ chức công việc cất nhà cho đồng bào vùng giới tuyến ở Do Linh,
Quảng Trị. Một số thanh niên, sinh viên thực tập dựng căn nhà mẫu ngay tại sân
trước trụ sở CPS, 69 bis Gia Long. Thực tập xong, căn nhà vách phên nứa, mái
tôn, 2 gian, còn để lại. Hồi Chương Trình Công Tác Hè 1965, một công trường dựng
nhà cho đồng bào Tỵ Nạn Cộng Sản ở Thạnh Lộc Thôn, Gò Vấp cũng đã được tổ chức.
Nhiều anh em tham dự công trường đó nên bây giờ thành thạo tổ chức cho công trường
này. Hồi đó các bạn sinh viên hơi lúng túng vì chưa ai biết việc, bây giờ cẩn thận, Ban
Tổ Chức cho một số bạn làm quen trước để ra ngoài Trung hướng dẫn các bạn khác.
Căn nhà, đúng ra là một căn lều, để lại như một kỷ niệm.
Thường thường, mỗi tuần tôi có
vài, ba ngày không phải đi sớm đến trường học, nên hay rủ mấy bạn sinh viên
đang trú đóng trong trụ sở CPS đi uống cà phê xe bà Tàu góc Nguyễn Trung Trực,
Gia Long.. Trụ sở CPS mới đầu gồm 3 dẫy nhà tiền chế. Dẫy trước ngay lối cổng
chính từ đường Gia Long đi vào, nằm vuông góc với đường Gia Long, là khu chính
gồm các văn phòng của CPS. Rất nhiều phòng nên Nhóm Sinh Viên Văn Hóa cũng “chiếm”
một phòng. Sau dẫy nhà chính này là một khoảng sân rộng, rồi đến một dẫy nhà
song song chạy dọc theo hàng rào của đường Công Lý. Gạch nối hai dãy nhà trên
là một dẫy nhà nằm ngang, chúng tôi quen gọi là “nhà dưới”. Sau này CPS chỉ còn
giữ dẫy chính và dẫy nhà dưới. Một số bạn sinh viên hoặc thích sống lang bạt kỳ
hồ, hoặc do từ Miền Trung vào, trú đóng thường trực ở dẫy nhà dưới. Có lẽ các bạn
được coi như một dạng nhân viên nào đó của CPS, tôi không rõ lắm chuyện này,
cũng chẳng biết các bạn làm gì rõ ràng cho CPS. Hình như các bạn cũng tổ chức
thành nhóm gì đó. Tôi làm việc, ăn, ở khu “nhà trên”, sau này thấy có phòng trống
ở dưới, nên di tản xuống ở dưới đó, để “văn phòng” của tôi trên này trông tươm
tất hơn. Vô tình tôi như đóng vai gạch nối giữa hai “khối” nhà, giữa hai “khối”
người. Căn phòng tôi ở khu nhà dưới đôi khi cho vài bạn trong nhóm đó làm chuyện
nghịch ngợm, giải trí. Thỉnh thoảng họ lẻn vào nhà kho phía sau, chung vách với
phòng tôi, xoi lỗ qua vách làm bằng bìa ép (hay ván ép?) xem may ra có chuyện
gì vui vui trong phòng tôi? Cũng là một cơ hội “giúp ích” các bạn. Nhiều công
việc của Nhóm Sinh Viên Văn Hóa cần có sự tiếp tay của các bạn “nhà dưới”, như
chuyển lời mời tham dự các sự kiện đến bạn bè sinh viên, giúp một tay trong việc
trang hoàng, xếp đặt bàn ghế, đóng gói tài liệu để gửi đi. Bìa cuốn “Trò Chơi Ở
Trại” do bạn Tiên trong nhóm đó trình bày. Các bạn như các nhóm viên vòng ngoài
của nhóm SVVH.
Trong một buổi cà phê sáng ở xe
Bà Tầu, tôi nêu câu hỏi với các bạn nhà dưới: Tại sao mình cứ phải trả tiền cà
phê thế này nhỉ? Tại sao mình không tổ chức việc bán cà phê tại khu mình ở, vừa
đỡ tốn tiền, may ra có thêm tiền túi? Mình có căn lều đẹp quá mà? Các bạn lao
xao hưởng ứng, bèn kéo nhau về ngồi cái bàn ngoài hành lang “nhà trên” thảo luận
tiếp. Nhìn lại, quả thực căn nhà mẫu nép dưới mấy cây (cây gì?) tàn lá rộng
trông khá thơ mộng. Diện tích chẳng rộng bao nhiêu, kê được 4 cái bàn con cóc
là chật rồi, nhưng còn ngoài sân. Một sân xi măng có tường thấp bao quanh như
ghế ngồi. Rất thuận tiện. Các bạn nêu chuyện kinh phí, không phải là nhỏ. Tôi hứa
giải quyết được. Thế là coi như đồng ý. Lúc chọn tên, nhiều tên ngộ ghĩnh hoặc
nghiêm chỉnh được nêu ra. Tôi lấy chữ Văn Hóa trong tên nhóm đề nghị: Nhưng
không ai gọi Quán Cà Phê Văn Hóa cả, nên gọi tắt là “Quán Văn”, bỏ luôn chữ cà
phê luôn. Mọi người đồng ý vì hai chữ “Quán Văn” vừa giản dị, vừa chứa đựng nhiều ý nghĩa, cho
ta hình tượng đẹp, lãng mạn, nhất là dễ nhớ. Bạn Tiên nhận kẻ “bảng hiệu”. Sau
này, đó là một bảng hiệu đẹp, chữ nâu trên một tấm ván ép.
Các bạn nhà dưới
chỉ nghĩ tiền vốn là khó khăn duy nhất, mặc dù nó là một số tiền không nhỏ thật,
nhưng tôi có thể giải quyết do những tích tụ từ khu vực xuất bản. Nhưng còn những
khó khăn khác các bạn không thấy, mà tôi cũng chưa từng nêu ra để các bạn đỡ ngại
ngùng, mà bản thân tôi cũng không giải quyết được: Chuyện giấy phép buôn bán,
chuyện giấy phép tụ họp khi quán quá đông, chuyện an ninh khi tụ họp đông người.
Thời điểm đó Sài Gòn còn giới nghiêm dù chỉ mấy giờ mỗi đêm, nhưng được phép tụ
họp không phải là chuyện dễ, những trái lựu đạn có thể bất ngờ được tung ra.
Lúc này phải nhờ đến Ban Diều Hành CPS, đúng ra lại phải nhờ anh Đỗ Ngọc Yến.
Anh Yến không ở trong CPS, nhưng trong các sinh hoạt thanh niên, sing viên, học
sinh, anh vẫn là một bàn tay gõ được nhiều cửa. Tôi nhớ một buổi hội họp tại
sân trước CPS có Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đến
dự, anh Đỗ Ngọc Yến là người đọc diễn văn đón chào trước khi ông Kỳ nói chuyện.
Như vậy buổi này chính là buổi lễ xuất phát của Công Trường Vùng Giới Tuyến
(hình như tên như vậy?) của thanh niên, sinh viên Sài Gòn, làm nhà cho đồng bào
Miền Trung, mà anh Yến là “Trại trưởng?”. Nếu là một buổi lễ khác của CPS thì
anh Yến không phải là người đọc diễn văn vì anh là “người ngoài”. Buổi lễ diễn
ra ngay trước “căn nhà mẫu” mà các sinh viên mới dựng lên. Tôi nhớ buổi lễ này
vì tôi là người viết bài nói chuyện của anh Yến. Do hiểu lầm 18 giờ , tức 6 giờ
chiều với 8 giờ (tối) mà tôi trễ nải chuyện bắt đầu viết. Cho nên anh Yến vừa đứng
trên bục đọc (hay nói bịa thêm?), vừa để một tay sau lưng để anh em ngồi hàng
ghế sát đó chuyền những tờ giấy tôi viết vội lên cho anh. Cái khổ của kẻ viết ngồi
trong phòng là vừa phải nghe tiếng anh Yến oang oang trên loa phóng thanh những
điều mình mới viết, vừa phải suy nghĩ viết tiếp. Cuối cùng cũng xong. Như vậy,
dù không giữ chức vụ gì rõ rệt ở CPS, anh Yến vẫn là một nhân vật uy tín trong
sinh hoạt học đường. Cho nên, hoặc anh Đỗ Ngọc Yến cùng vài anh trong Ban Điều
Hành CPS, hoặc một mình anh, hoặc anh móc nối cho mấy anh CPS, họ gặp Tổng Giám
Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia lúc đó (Tướng Nguyễn Ngọc Loan?), họ cũng gặp Đô
Trưởng (hay văn phòng Đô Trưởng?), họ gặp những ai đó tôi không nhớ, không rõ,
để trình bày sinh hoạt hằng đêm của một nhóm sinh viên tại trụ sở CPS, tức là
chuyện tụ họp uống cà phê tại Quán Văn. Chúng tôi được cho phép ngầm. Chẳng hiểu
mỗi đêm trên sân cỏ của quán có mấy vị an ninh chìm? Có vị nào thuộc Phủ Đặc Ủy?
Và có vị nào thuộc giới bưng biền? Suốt giai đoạn đó tôi luôn ý thức rằng nơi
chốn này là một sân chơi, chưa biết bao giờ, chuyện gì, sẽ xẩy ra?
Trở
lại chuyện khi có người nói “Quán Văn” là của CPS thì quả thực không sai mà
cũng không đúng lắm. Không sai vì chúng tôi sinh hoạt trong khuôn viên CPS, dùng
các tiện nghi của CPS, không sai vì CPS “đứng bảo lãnh” đối với các giới chức
chính quyền. Không đúng lắm vì CPS chẳng hề can dự gì vào chuyện tổ chức, điều
hành, tiền ra tiền vào của Quán. CPS không hề biết, hay nghĩ đến, chuyện có một
cơ sở sinh hoạt là Quán Văn. Tôi bàn chuyện làm quán với mấy bạn sinh viên,
xong hết rồi mới nêu chuyện an ninh với CPS và tìm đến anh Đỗ Ngọc Yến. Ngay cả
sau mấy tuần lễ hoạt động, tôi phát triển sinh hoạt thành “Chương Trình Những
Đêm Thứ Sáu”, mấy vị trong CPS cũng không biết. Tôi nói những điều trên với giả
định trong số anh em làm quán không có ai ‘nằm vùng” cho CPS. Thật thê thảm, thật
đáng thương cho đất nước mình khi cứ phải nhớ đến mấy chữ chẳng hay ho gì này.
Đến bây giờ, sống ở xứ sở mệnh danh mảnh đất tự do, vẫn mấy chữ đó lảng vảng
đâu đây trong đời sống chúng ta.
Đến
nhờ cậy anh Đỗ Ngọc Yến tôi phải trình bày chuyện Quán Văn với những ý nghĩa thời
sự của nó, ý nghĩa nối tiếp sinh hoạt cần thiết dành cho giới thanh niên thành
thị đã được đánh động từ Chương Trình Hè 65, bên cạnh mối lo canh cánh của quân
dịch, của động viên, của chiến tranh. CPS là một chương trình của Bộ Giáo Dục,
do các nhà mô phạm dẫn dắt, hoạt động trong giới học sinh, trong học đường, vẫn
là một cái gì khuôn phép, gò bó. Thanh niên cần một cái gì khơi mở hơn, thoáng
đãng hơn, dù có bị hạn chế của một đất nước có chiến tranh, nhưng vẫn mong có
vùng đất nhiều khí trời tự do để hít thở. Thanh niên thích những khu vực có thể
tỏ bày “lý tưởng” trong khung cảnh thư dãn vì hai chữ đó đang được nhiều bên cổ
xúy. Tương tự, trước đây mấy tháng (khoảng đầu 1967), việc ấn hành “Kibbutz” như
một gợi ý cho “những người nhiệt huyết”, những người muốn sắn tay áo ngay, lao
vào ngay một khu vực xây dựng đất nước. Trong mấy anh em CPS, tôi chỉ trình bày
kiểu này với anh Trần Đại Lộc, một người Miền Nam hơn tôi có một tuổi, lý tưởng
mà xuề xòa, nghệ sĩ mà thực tế. Anh Lộc cho tôi mượn chiếc máy magnetophone duy
nhất của anh và mấy băng nhạc Phạm Duy để chạy tại quán từ những ngày đầu, và
chạy đến mòn băng, mòn đầu máy. Xin thú nhận, mấy ý trên chỉ là ‘học lại” những gì được nghe
từ mấy vị có viễn kiến, trong đó có anh Đỗ Ngọc Yến. Ở đâu đó tôi đã kể khoảng
đầu thập niên 1960 tôi có được đọc tập sách dày cộm do anh Yến đánh máy để in,
do anh Lý Đại Nguyên viết, tên “Tổng Thức Vận”. Rơi rớt lại từ tập sách đó có
đôi điều chẳng rõ vì sao tôi nhớ được, kèm theo loạt ‘Xã Luận” cụ Nguyễn Đức Quỳnh
viết cho một tờ nhật báo (tôi không nhớ tên) vào cuối thập niên 1950, trong đó có loạt bài cụ viết về "Lập Ngôn, Lập Thuyết, Lập Công". Hình như quyển
sách của anh Lý thu thập từ Đàm Trường Viễn Kiến của Cụ Quỳnh, hoặc do anh
suy ngẫm với sự gợi ý của Cụ Quỳnh? Hồi đó, những gì trong đầu óc tôi, một mớ hỗn
độn hiểu biết của một anh con nít tưởng mình có tư tưởng lớn, lại khiến nhóm bạn
đồng lứa, đồng điệu, thích thú. Nhìn lại “anh nhãi ranh thưở ấy”, thấy nực cười
nhưng thú vị. Bây giờ tôi vẫn thấy nhiều điều kỳ thú giữa những hàng chữ rối rắm,
nhiêu khê trong gần ngàn trang sách của anh Lý Đại Nguyên.
Về nhân sự, kiểm
điểm lại những đấng tu mi nam tử, những vị nữ lưu tham dự Quán Văn, có người từ
khi bàn thảo, có người sau đó mới nhập bọn để chạy nơi này nơi nọ mua bán bàn,
ghế, ly tách, … xem tôi còn nhớ được ai. Chắc rằng nhiều bạn khác nhớ rõ hơn
tôi về các nhân vật này. Ngoài mấy bạn thường sát cạnh tôi trong đủ loại sinh
hoạt là hai bạn Đạt Lớn, Đạt Nhỏ, còn mấy bạn từ khu trường Dược như Đinh Bá Ái, Trần Viết Anh. Phần nhân sự mang tính cách 'lao động chân tay" phải kể đến hầu
hết các bạn ‘khu nhà dưới” như Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Sơn, Hoàng Xuân
Giang, bạn Huỳnh, bạn Định, bạn họa sĩ Tiên, bạn Hoàng Ngọc Tuấn, và ai nữa tôi
không còn nhớ rõ, thuộc nhóm “sáng lập” Quán Văn. Các bạn chia nhau hàng đống
công việc. Trong khi túi bụi trên đường phố Sài Gòn, các bạn đó lại chiêu mộ
thêm nhiều đấng anh hùng lãng tử chạy tiếp sức.
Tôi còn nhớ được mấy vị như: Tấn Mốc (tôi biết từ hồi Chương Trình Hè
65), Lưu (hay Ngô?) Văn Tính, bạn này không rõ có học phân khoa nào hay không
nhưng thấy mấy sinh hoạt vui nhộn thì nhào vào, và được anh em “nể vì” do có
chiếc Lambretta (hay Vespa?), tha hồ chở đồ đạc lỉnh kỉnh. Bạn Tính sau này còn
chằng chịt với tôi thời “hậu Quán Văn.” Rồi dần dà cần người thu nhặt ly tách,
vỏ chai dấm dúi trong các bụi cây, bụi cỏ, cần những “sức lực mà không cần đầu
óc” để chặt đá, khiêng các cây đá, khiêng các két nước ngọt, rửa ly, tách, muỗng
(không có nĩa), phin pha cà phê, các bạn trên lại “mộ” đươc mấy vị khỏe tay,
nhanh chân như Nguyễn Khả Lộc, Quasimodo (chàng này cà tong cà teo nhưng ham
vui, sau cũng phải dãn ra), … Thiếu hụt
nhân công thì kêu gọi con cháu trong nhà tham dự như mấy bạn trẻ em của Đạt Nhỏ.
Công đầu về “chiêu hiền đãi sĩ” thuộc Ngô Vương Toại khi bạn ngay từ khi quán mở
những ngày đầu đã xếp được ngay một mỹ nhân ngồi vào ghế thu tiền, bán vé: cô bé
Nhuệ Giang, người sau này được nhà văn Ngyễn Thụy Long đặt tên: “Bông Hồng Của
Quán Văn”, tên giòng sông của cô cũng được chúng tôi ghi vào một trong 3 mảnh
giấy vo viên để bốc thăm tìm tên cho nhà xuất bản.
Công
việc ở quán được phân chia giữa mấy anh em sáng lập. Mỗi người phụ trách một
ngày (hay một tuần?), là người trực chính, đóng vai quản lý chăm lo từ a đến z
dịch vụ của quán. Đầu tiên bạn phải lo cho đủ cà phê, thuốc lá, nước ngọt,
chanh, đường, đá, … Chính bạn đi mua hoặc tùy tài ngoại giao, nhờ ai đi chở
giùm. Bạn cũng phải cắt cử mấy anh em hụ hợ bên ngoài, hoặc chính bạn, lo đến
trước giờ mở quán một giờ để “nhóm bếp”, nấu nước sôi, cho sẵn cà phê vào một số
phin, cho sẵn trà vào bình trà, kiểm điểm “tủ thuốc lá”, và nặng nhất là chặt
đá. Mỗi “ngày quản lý” được lãnh phụ cấp $70 (hay $100?) một ngày, những bạn
khác được $25? hay $50? Riêng “Đêm Thứ Sáu” tiền phụ cấp (tiền công) cao hơn vì
làm việc nhiều hơn, ở lại trễ hơn. Vài anh bạn chuyên biệt hơn nữa chia với tôi
vài công việc đặc biệt. Chúng tôi ngoài phiên trực chính (quản lý), phải lo
thuê mướn, đi lấy, mang trả dàn máy âm thanh cho các đêm sinh hoạt. Lúc đầu, Trần Viết Anh thấy mọi người chạy ra chạy vào rối mù, tiền bạc lộn xộn, đã bỏ công tổ chức, sắp xếp cho thành nền nếp. Riêng tôi,
được anh em đặt cho là “Chủ Quán”, lo các chương trình “Những Đêm Thứ Sáu”, và
thường là lo cất đi và mang ra cái magnetophone của anh Trần Đại Lộc, cất đi tiền
thu được mỗi đêm và mang ra một số tiền lẻ cho cô Nhuệ Giang vào đầu các buổi tối khi quán bắt đầu mở cửa.
Khách
vào quán phải đi qua cái quầy kê ngay cửa chính. Bước vào cửa, khách sẽ gặp cô
Nhuệ Giang đầu tiên để mua ticket thức uống, và mua thuốc lá. Nếu khi mua
ticket, trong các câu thăm hỏi “Bông Hồng của Quán Văn” (có khi kéo dài đến 5
phút nếu không bị vị khách sau thúc dục), bạn nói được tên thức uống thì bạn sẽ
có ngay ở một vài bước chân tiếp theo dọc theo quầy, vì mấy bạn phụ trách “pha
chế” đứng cạnh đó sẽ làm ngay. Sau đó, tự bạn mang thức uống đi trong khi có thể
trên môi đã phì phèo điếu thuốc (nhiều khi để che dấu nụ cười ngất ngây sau
phút giây ticket?). Có thể chính bạn phải đến chồng ghế cóc (ghế sắt nhỏ, thấp
của quán cóc), sách một chiếc đến chỗ ngồi cùng nhóm bạn bè, hoặc bạn ngồi ngay
trên bực thềm bao quanh “sân sau.” Đêm Thứ Sáu, có thể bạn phải ngồi bệt trên
sân cỏ. Quán chỉ “tậu” độ chục cái bàn xếp nhỏ bằng sắt, thấp lè tè, chừng 40
cái ghế cũng bằng sắt. Đó là lúc ban đầu, về sau bàn ghế cũng thất lạc dần,
nhưng khách hàng không quan tâm về bàn ghế nên chúng tôi chẳng cần mua thêm.
Quán
bắt đầu mở cửa lúc 6 giờ chiều, sau này mở sớm hơn, 5 giờ chiều, và chừng 10 giờ
đêm anh em lục tục thu dọn, rửa ráy ly tách, một ít khách có thể nấn ná đến 11
giờ khuya, không chừng. Đó là nguyên tắc. Thực tế, những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật,
nhiều bạn thanh niên, sinh viên ở xa nghe nói “Quán Văn”, nay có cơ hội về Thủ
Đô, cũng ghé qua từ buổi trưa trở đi, đôi khi “lấy hẹn” từ sáng. Mấy bạn “làm
việc của quán” thuộc nhóm “nhà dưới”, cuối tuần không đi học, thay vì bát phố,
sẵn lòng chiều khách phương xa nếu khách chịu chờ nhóm bếp, chuẩn bị hơi lâu.
Tôi nghe kể có lần mấy bạn của quán còn đãi khách miễn phí lúc gặp mấy vị khoác
áo chiến y gốc Miền Trung, Miền Tây, bất ngờ có mấy ngày ở Sài Gòn, không kịp về
quê, ghé qua “Quán Văn” một lần cho biết. Rất đáng để mất công như vậy, cho cả
người từ phương xa lẫn người ở ngay tại quán. Tưởng tượng, một ngày cuối tuần,
nắng và gió thi nhau nhảy múa trên mấy tàn cây che phủ “mái lá” (thực ra là mái
tôn) của quán sinh viên nghèo ngay trung tâm Sài Gòn đô hội, bạn quên đi nơi tiền
đồn heo hút, ngồi nhâm nhi ly cà phê “chẳng giống ai” (vì bọn này có biết pha
chế gì đâu), phì phèo điếu thuốc giữa chốn bình yên xa lánh bụi trần, tiếng xe
chạy, tiếng cõi người náo nhiệt chỉ như ầm ì vọng về từ chốn nào xa xăm. Bạn là
khách lạ nơi này, gặp được mấy chàng thư sinh mộc mạc, nẩy kết tình tâm giao “giữa
những tâm hồn yêu màu tím, thích nhạc Trịnh, …”, hoặc bỗng dưng gặp tên lãng du
đồng điệu, ôm sách “buồn nôn”, đi vào “hố thẳm”, cùng nhau cao ngạo bọn tha
nhân, thì cái thú chơi tao nhã của mấy bậc văn nhân thi sĩ cũng chỉ “đã” đến thế
là cùng. Tôi nghe kể thôi chứ cái thằng tôi “dùi đục chấm mắm cáy”, có biết gì
là tao nhã, là nhạc Trịnh, là ông triết gia thiên tả Jan-Paul Sartre, hay ông
Mít triết lý Phạm Công Thiện (không biết lúc đó ông Thiện về nước chưa?)
Sinh
hoạt văn nghệ chỉ diễn ra vào đêm Thứ Sáu, được gọi là “Chương Trình Những Đêm
Thứ Sáu”. Tuy nhiên các đêm ngày thường, các đêm cuối tuần, nếu bạn là chàng
sinh viên may mắn được nán lại quán thêm ít phút sau giờ đóng cửa, có thể bạn sẽ
được ngồi giữa nhóm đàn địch ca hát năm sáu mống “gần như thường trực” hằng
đêm. Bạn sẽ ngả nghiêng qua lại theo nhịp bài hát “Người con gái Việt Nam da
vàng, …”, làm chuyến viễn du theo “Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ, …”. Tức
là, bạn đang ngồi đàn đúm với Trịnh Công Sơn, Khánh Ly, Ngô Vương Toại, Hoàng
Xuân Sơn, và ai ai nữa … Có thể có cả bạn Quadimodo bụi bặm lúc nào cũng cười
cười như từ lúc ra đời vẫn thế. Giờ giới nghiêm đã đến mà không kịp về, chắc hẳn
bạn phải kiếm được góc nào đó trong dẫy nhà tiền chế mà thao thức quanh đêm. Hồi
đó giới nghiêm còn ngắn. Anh bạn Lưu (Ngô?) Văn Tính từng phãi ngủ phòng tôi mấy
lần.
Tôi
vẫn nhớ rằng “Quán Văn” chỉ tồn tại có hơn nửa năm, từ khoảng Tháng Năm, Tháng
Sáu năm 1967 đến Tết Mậu Thân đầu 1968. Những ngày đầu đến quán chỉ thấy mấy ngọn
đèn màu vàng hưu hắt ngoài sân sau, nhưng tại quầy bán vé và pha chế, bóng đèn
sáng rực hơn trong mấy cái chụp đèn tự làm lấy, và chỗ cô Nhuệ Giang, ánh sáng
tự nó như kỳ ảo qua nụ cười răng khểnh chết người, khiến có chàng thư sinh
không biết hút thuốc cũng ‘lỡ gật đầu’ lấy điếu Hav - A- Tampa (có đúng tên thuốc như vậy không?) 5 đồng
một diếu. May mà cô không “gán” cho chàng cả bao thuốc 4 (?) điếu thì chàng nhẵn
túi. Mấy hôm sau anh Tần Đại Lộc xách đến cái magnetophone nhỏ cùng 2, 3 cuộn
băng nhạc Phạm Duy, thì thiên nhạ bắt đầu ngây ngất với Quán Văn. Mới mở, nhưng
quán khá đông do mấy cái loa của các bạn sinh viên “đa khoa’ trong nhóm lan
truyền tin tức tại các khuôn viên đại học; và nụ cười của “Bông Hồng Quán Văn”,
ánh đèn huyền ảo, tiếng nhạc dìu dặt dưới trời đêm, đã giữ bước chân bạn trẻ
sau một lần ghé quán.
Vẫn
theo trí nhớ đáng nghi của tôi, sau chừng 2, 3 tuần lễ, tôi tính chuyện tổ chức
ca nhạc cuối tuần sau thí nghiệm “Đêm Việt Nam” trước đó nửa năm hơn. Có mấy
đêm cuối tuần, Thứ Bảy thiên hạ hay bận bịu những chương trình lớn, Chủ Nhật lại
không nên thức khuya, sáng mai đi làm, đi học, tôi chọn đêm Thứ Sáu như một khởi
đầu cho mấy ngày thư thái theo sau, nếu sáng Thứ Bảy đi làm cũng là cho có, buổi
trưa đã xong rồi. Khởi đầu, không dễ gì bằng lại “cây nhà, lá vườn”, tức là quí
vị văn thi sĩ thân quen: Đỗ Quí Toàn, Trần Dạ Từ, Tú Kếu, Trần Tuấn Kiệt, … Tôi
nhớ đêm đầu tiên của “Chương Trình Những Đêm Thứ Sáu” rơi vào một ngày mưa. Các
ngài thi nhân đứng dưới mái dù lớn căng phủ nền xi măng sân sau của quán, đọc thơ cho đám
thần dân xúm xít chung quanh nghe. Mái dù, nên nước mưa vẫn nhỏ giọt, cả thi
nhân lẫn “khán nhân” đều thấm ít nước trời cho trong cái gió lạnh thổi bập bùng
mái vải. Xá gì, bởi vì có lẽ đây là buổi “trình diễn sống” đầu tiên của một
quán cà phê đất Sài Gòn, văn nghệ sĩ và giới thưởng ngoạn nói cười ngay sát cạnh
nhau, trở thành bạn bè nếu duyên đến được. Đêm Đọc Thơ cũng là một “Đàm Trường”
với những tâm tình chia sẻ gần gụi, cũng là một đêm văn nghệ với các giọng
ngâm, giọng đọc, ý thơ được diễn đạt sống, thật, thân tình. Gió càng lạnh, chúng
ta càng gần nhau hơn.
Sau
đó là những chương trình tình thân hàng xóm láng giềng vì chẳng lạ gì nhau:
Nghiêm Phú Phát và Thanh Lan cùng ban Nguồn Sống, Nguyễn Đức Quang và ban Trầm
Ca, rồi bóng cây đa cổ thụ Phạm Duy cũng phủ xuống sân cỏ Quán Văn. Những Đêm
Thứ Sáu đã thành món ăn quen thuộc của các bạn trẻ học đường. Trong tuần, chiều
Thứ Năm, sáng Thứ Sáu, nhiều bạn đạp xe ghé vào xem tờ giấy gắn trên vách nứa
“mặt tiền” của quán để biết tuần này “có gì, của ai”. Về sau, Vũ Thành An, Từ
Công Phụng, … tìm đến để … ghi lịch hát. Tôi không dám dùng chữ “xin” trình diễn
trên sân cỏ Quán Văn, nhưng quả thực nếu hỗn hào dùng chữ đó cũng không quá
đáng. Trước đó, có lẽ khoảng Tháng Tám hoặc trước hay sau vài tuần, Khánh Ly xuất hiện “trên bục diễn”, tức là mấy
két gỗ đựng nước ngọt úp xuống. Một buổi sáng, Toại, Sơn, và ai nữa gặp tôi nói
có cô này, Khánh Ly, hay lắm, anh Bí thu xếp cho một Đêm Thứ Sáu. Ở một đoạn
trên tôi đã nói, tôi là một thàng “Cù Lần”, chẳng biết gì về sinh hoạt phòng
trà, vũ trường, văn nghệ văn gừng trên đài phát thanh, nhất là ở mãi tận Đà Lạt,
nên không biết Khánh Ly là ai. Trong đầu óc đất sét của tôi, chỉ có mấy phương
danh của Thái Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Ban Thăng Long, … Tôi hỏi gặng lại
các bạn, có chắc chắn cô ta hát được không, “quán mính tiêu chuẩn hơi cao (rõ
là con ếch muốn to bằng con bò, mà lại đang ngồi dưới đáy giếng), và hát cái gì?”
Tôi có “phòng” ở CPS nhưng không thường xuyên ngủ lại, đâu có biết cả tuần nay
các bạn ấy đã đàn đúm với Trịnh Công Sơn và Khánh Ly.
Trịnh
Công Sơn thì tôi “biết”. Từ cuối năm 1965, hay đầu 1966, một buổi tối chúng
tôi, có thể gồm Đỗ Ngọc Yến, Đỗ Quý Toàn, Trần Đại Lộc, tôi không chắc lắm gồm
những ai, ghé chơi nhà chị Dung, sau này trở thành chị Trần Văn Ngô. Một cô em
của chị Dung, cô Thục, mang ra cái cassette nhỏ, khoe có mấy bài hát này hay lắm.
Chúng tôi ngồi nghe, lúc đầu vì lịch sự, sau trở nên một bất ngờ thích thú. Cô
nói đây là mấy bài của Trịnh Công Sơn ở Huế. Mấy vị kia có thể đã nghe biết rồi,
riêng tôi có hai điều “cả quỷnh”. Lần đầu tiên tôi biết được có một cái máy nhỏ
xíu gọi là cassette chạy băng nhạc, và cũng lần đầu tiên nghe tên nhạc sĩ họ Trịnh
của Miền Trung. Sau này, xuống chơi khu Hội Họa Sĩ Trẻ quay mặt ra đường Lê
Thánh Tôn, tôi gặp chàng nhạc sĩ tài hoa bằng xương bằng thịt. Chàng đóng đô
nơi đây, do đó, chàng hay la cà thâu đêm trên Quán Văn vì cách nhau chừng trăm
bước chân. Các chàng trai trẻ của Quán Văn quây quần cùng chàng nhạc sĩ cận thị
và cô ca sĩ xứ Đà Lạt anh đào đến khuya lắc khuya lơ, dù đêm Sài Gòn tạnh ráo
hay mưa bão. Những phút giây tuyệt vời trên mảnh đất một thời chứa bao số phận
lao tù. Cũng từ mảnh đất này, chàng văn nhân dụt dè, ít nói có chất liệu dựng
lên những tác phẩm mọi người yêu thích, nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn.
Nói
chuyện văn chương dính đến Quán Văn, nhà văn Nguyễn Thụy Long đã rất mực yêu mến
không khí lãng mạn mà tỉnh thức, trẻ trung mà cổ điển của những đêm nhắp ngụm
cà phê bên bụi cỏ trong tiếng nhạc cuốn hút đam mê của Phạm Duy. Anh đã ngợi ca
quán trên nhật báo Sống (?) của nhà văn Chu Tử. Anh đặt tên bất tử “Bông Hồng Của
Quán Văn” cho cô Nhuệ Giang nhỏ nhắn. Biết đâu nhiều bạn trẻ đã tò mò tìm đến
quán vỉ bông hồng? Anh cũng lấy hình ảnh Quán Văn làm bối cảnh cho một truyện
dài đăng đâu đó. Xin thú nhận điều tệ hại của tôi là thói ít lưu ý đến các nhật
báo đương thời, nên nghe anh kể mấy điều trên nhưng chưa kịp tìm đọc. Anh Nguyễn
Thụy Long yêu Quán Văn và thương bọn thanh niên miệt mài làm quán không đủ tiền
mua một dàn máy cho đàng hoàng, nên đã lôi kéo ông Chủ Báo Chu Tử lẳng lặng đến
quán một đêm nào đó. Và mấy hôm sau, nhà văn báo tin ông Chu Tử tặng cho quán
hai chục ngàn đồng để sắm máy magnetophone cỡ tốt. Đầu tiên ông sẽ cho 10 ngàn
để đi thăm dò lựa máy, sau đó ít hôm ông thu xếp để có thêm 10 ngàn nữa. Đó
cũng là lúc anh Long bảo tôi chuẩn bị, anh xin cho tôi vào giữ trang nào đó, có
thể là “Văn nghệ Sinh viên, Học sinh” của tờ báo. Chưa biết ra sao, nhưng chắc
là được. Vì vậy, tôi tránh đi nhận tiền, và đề nghị bạn Lưu Trọng Đạt cầm đầu mấy
anh em đi gặp nhà văn chủ báo hảo tâm. Chưa kịp nhận món tiền thứ hai thì Tết Mậu
Thân xẩy ra. Giờ ngồi nhớ lại, thực tình tôi không nhớ số tiền 10 ngàn đầu tiên
đi đâu, hoặc được trả lại toàn soạn báo Sống, hoặc anh nào đó phụ trách mua máy
đã đặt tiền cọc, hoặc một phần đã được dùng mua sắm vật dụng nào khác cho quán,
hay là tôi giữ và sau này làm chuyện gì khác chăng … Về lý luận, có thể số tiền
đó, hoặc gần đủ số tiền đó, được hoàn lại khổ chủ. Mong rằng vậy để thôi lấn cấn.
Nhân
chuyện tiền nong, nhắc lại hồi đầu tôi kể đã mạnh miệng hứa với anh em tiền
không phải là chuyện khó giải quyết. Trước hết vì tôi tương đối kiếm tiền khá
hơn anh em, trừ bạn Huỳnh lúc đó đang làm cho Việt Tấn Xã, nhưng Huỳnh bận bịu
nên hầu như không tham dự nhiều vào việc quán. Thứ hai, vì tương đối quỹ của
nhóm Sinh Viên Văn Hóa và Nhà Xuất Bản vẫn dồi dào do các dự án được CPS chi trả đầy đủ, tiền bán sách thu được kha khá, rồi mấy
anh em cũng sẵn lòng đóng góp ít nhiều. Thứ ba, vì tôi đã sẵn ngay ý nghĩ “bán
phiếu thân hữu”. Tôi không nhớ mệnh giá của mấy phiếu này là bao nhiêu, hay là
tùy người mua. Có lẽ bạn có thể mua phiếu với 20 dồng, rồi bạn cứ đến quán uống
thoải mái trong thời gian bao lâu đó, nhưng không áp dụng cho thuốc lá. Hoặc bạn
mua phiếu 40 đồng, thì thời gian tăng gấp 3 lần chẳng hạn. Bạn có thể rủ thêm bạn
bè đến uống, cũng không trả tiền, trong thời hạn còn hiệu lực. Tôi không nhớ
chính xác mấy điều này. Số người mua phiếu có lẽ lên đến gần một trăm, nhưng
tuyệt nhiên không ai chịu uống miễn phí. Mua phiếu rồi, thân hữu vẫn mua ticket
tại cô Nhuệ Giang, đôi khi còn tặng thêm “nhân viên pha chế” vài điếu thuốc.
Các nghệ sĩ đến trình diễn tại quán cũng được quán tặng phiếu “miễn phí” vĩnh
viễn, và cũng được rủ thêm bạn bè đến hưởng vui chung. Cũng không vị nào dùng
phiếu tuy đôi lần “khoe” với bạn bè.
Nhiều
bạn bè quen biết hỏi tôi như thế Quán Văn “sống” được bao lâu? Trên internet có
vị nói rằng Quán Văn kéo dài hơn hai năm. Tôi không nghĩ vậy. Suy luận và ký ức
cho tôi tin rằng tuổi thọ của Quán Văn chừng 6, 7 tháng, Nhiều vị nghĩ rằng lâu
hơn vì Quán Văn quả thực đã có một đóng góp chút ít cho sinh hoạt văn học nghệ
thuật thuở đó, và (có lẽ) cũng mở đầu cho phong trào trình diễn thân hữu tại
các quán cà phê sau này, như Hầm Gió của Cụ thân sinh cây nhạc trẻ Nam Lộc,
quán Làng Văn, Hội quán Cây Tre, … ở Sài Gòn, và T2 ở Đà Lạt, …, và Quán Thằng
Bờm của hai bạn Quán Văn cũ là Lưu Trọng Đạt và Đinh Bá Ái. (Quán Thằng Bờm là nơi
cặp Lê Uyên và Phương xuất hiện ở Sài Gòn đầu tiên (?), sau khi được giới thiệu
trên Đài Phát Thanh Sài Gòn. Có vị nói cặp nhạc sĩ, ca sĩ từ Đà Lạt xuống này
có hát ở Quán Văn, thực ra lúc đó Quán Văn đóng cửa gần hai năm rồi.)
Tôi
nhớ như thế này: Sau khi “Chương Trình Công Tác Hè 1965 Thanh Niên – Sinh Viên
– Học Sinh” kết thúc, chúng tôi vẫn phải bận rộn để thanh thỏa về phương diện
tài chánh, và giải quyết những gì còn lại tại các địa phương đến cuối năm 1965,
đầu 1966 mới xong. (Có thể một dịp khác tôi xin kể về “Chương Trình hè 65”, hoặc
quí vị đọc ở mấy bài “Nói Chuyện Với Nhà Báo Đỗ Ngọc Yến” có đề cập đến sinh hoạt
này). Ở đây tôi xin kể tiếp chuyện Quán Văn. Một số anh em tham dự Chương Trình
Hè 65 thuộc giới giáo chức, tức là thuộc Bộ Giáo Dục. Xong Chương Trình Hè, anh
em muốn nối tiếp các sinh hoạt cho học sinh như thời gian qua, một loại sinh hoạt
mở rộng hơn, ra khỏi khu vực học đường và hướng đến phục vụ xã hội. Sau một thời
gian vận động, Bộ Giáo Dục đồng ý cho thành lập “Chương Trình Phát Triển Sinh
Hoạt Thanh Niên Học Đường, gọi tắt là CPS”. Đa số anh em giáo chức của Hè 65 trước
đây đều tham dự CPS. Lúc đó, tuy anh Đỗ
Ngọc Yến vẫn sát cánh với anh em nhưng dành trọn thời giờ cho khu vực báo chí,
hai anh Trần Văn Ngô và Lê Đình Điểu làm việc bên Việt Tấn Xã. Hình như anh Ngô
là Phó Tổng Giám Đốc. Anh Lê Đình Điểu giúp tôi việc in ấn tại Việt Tấn Xã tập
nhạc của Nguyễn Đức Quang, một ấn phẩm của nhà xuất bản Quảng Hóa. Cả hai anh
tuy vẫn liên lạc nhưng ít tham dự việc điều hành quản trị của CPS. Tổng Quản Trị
CPS là Phan Văn Phùng hay Hà Tường Cát?, Đỗ Quí Toàn, Trần Đại Lộc, Phạm Phú
Minh đều ở trong Ban Điều Hành CPS, không nhớ có Đỗ Anh Tài không? Anh Hoàng Ngọc
Tuệ là Dược Sĩ (Quân Dược) không rõ khi đó làm việc ở đâu tại Sài Gòn? Do đó,
CPS chỉ có thể hoạt động mạnh mẽ và chính thức sớm lắm là từ giữa năm 1966. Chắc
là cuối năm 1966 tôi mới bén mảng đến CPS, để có cái hình chụp với banderole
“Đêm Việt Nam” vào giao thừa Đinh Mùi, ngày 8 Tháng 2, năm 1967. Sau đó, tôi
làm một số dự án cho CPS, nên Quán Văn mở cửa sớm lắm vào Tháng 6 hay Tháng 7,
năm 1967, kéo dài đến Tết Mậu Thân, đầu 1968 thì đóng cửa. Có tăng tuổi thọ hơn
nữa, Quán Văn cũng chỉ từ đầu 1967 đến đầu 1968, một năm là cùng.
Một
điều nữa khiến tôi tin Quán Văn sống chừng hơn nửa năm thôi là ký ức rộn ràng về
các buổi sinh hoạt “Những Đêm Thứ Sáu”. Anh em Quán Văn gọi tôi là Chủ Quán,
anh em cũng chỉ định tôi làm MC các buổi sinh hoạt, hồi đó gọi là “animateur –
Hoạt Náo Viên”, người giới thiệu, người dẫn chương trình. Một câu mở đầu vẫn
còn văng vẳng bên tai tôi: “Thưa quí vị và các bạn, hôm nay là Kỳ Thứ … (, 2,
3, 4 …) của “Chương Trình Những Đêm Thứ Sáu” của Quán Văn …” Mà bên tai tôi còn
nghe mấy tiếng, hoặc “Kỳ Thứ Mười Hai”, hoặc “Kỳ Thứ Mười Sáu”. Tôi không cảm
thấy quen thuộc với âm thanh “kỳ thứ Mười Bẩy, hay kỳ thứ Mười Tám”, nên không
nghĩ Quán Văn có hơn 16 kỳ sinh hoạt kể từ buổi đọc thơ đầu tiên. Dĩ nhiên cảm
tưởng này không thể là một viện dẫn đáng tin. Nếu có trễ nải, đình trệ, 16 kỳ
diễn ra trong vòng 5 tháng tối đa. Kỳ cuối cùng hoặc diễn ra vào Thứ Sáu, 28 Tết,
tức ngày 7 Tháng Hai, 1968, hoặc có thể diễn ra một tuần trước vì cận Tết cần
nghỉ, anh em về quê, tức ngày 31 Tháng Giêng, 1968. Năm (5) Tháng thêm một tuần
nghỉ gần Tết, thêm 3, hay 4 tuần trước khi có trình diễn lúc mới mở quán, cho
nên 6 hay 7 Tháng là thời gian hữu lý của cuộc đời Quán Văn.
Vẫn theo trí nhớ kém cỏi của tôi, buổi sinh hoạt cuối cùng là chương
trình của Miên Đức Thắng. Trong không khí cuối năm, tôi đến tìm Miên Đức Thắng
khu building ký túc xá trên đường Công Lý, hình như cũng là trụ sở “Tổng Vụ
Thanh Niên Phật Tử” của Thầy Thiện Minh. Mấy ngày trước, Thắng tìm tôi, tặng tập
nhạc và nói muốn trình diễn ở Quán Văn. Liếc qua tập nhạc, vài bài có vẻ hơi
“căng” trong sinh hoạt chính trị Sài Gòn. Tôi trì hoãn và hẹn sẽ đến ký túc xá
thăm chàng. Sau khi quyết định “thây kệ”, cũng là tiếng nói của một tầng lớp
thanh niên, cứ để Thắng hát, mọi chuyện tính sau. Tôi cũng ỷ vào cái dù “Tổng Vụ”.
Nhưng không khí sôi động của buổi trình diễn khiến mấy bài của Miên Đức Thắng
“căng” hơn tôi tưởng. Rồi cũng yên, có thực sự yên không tôi không rõ vì tết Mậu
Thân ào đến, không ai có cơ hội nhắc lại không khí phản chiến mạnh của đêm này.
Thêm một điều khiến tôi nhớ đêm Miên Đức Thắng vì gặp thêm một chàng thanh niên
nhỏ nhắn, có vẻ nhỏ tuổi hơn tôi. Không nhớ Miên Đức Thắng có giới thiệu hay
chàng tự giới thiệu tên “Tôn Thất Lập”, mới làm được ít bài nhạc, muốn trình diễn ở Quán Văn. Qua câu chuyện, tôi hiểu rằng đây cũng là những bài "kiểu hơi nặng" nên nói muốn xem trước các bài này. Chàng hẹn tôi đến
nhà ở khu Chợ Bàn Cờ vào đêm 30 Tết nghe đàn hát chơi, xem trình diễn được hay
không. (Bây giờ tôi phân vân hay là Chợ Vườn Chuối? Nếu đi trên Phan Đình Phùng
hướng từ Lê Văn Duyệt đi về phía Chợ Lớn, chợ này chưa qua đường Cao Thắng,
chưa đến khu Nguyễn Thiện Thuật) Vì là Tết
nên tôi hẹn Lập phải sau Tết mới có sinh hoạt, lúc đó mới có buổi trình diễn đầu
năm. Không hiểu vì sao, hoặc vì linh tính, hoặc vì không khí đêm Miên Đức Thắng,
trước ngày 30 tết mấy ngày, tôi đạp xe lảng vảng trong khu chợ Bàn Cờ (Vườn Chuối?),
tìm địa chỉ Tôn Thất Lập, và còn nhớ đó là một căn phố nhỏ hẹp có lầu, cửa chính mở
ra ngay trước các sạp hàng, lúc đó đóng kín. Tôi vẫn thắc mắc nhưng chẳng muốn tìm biết làm gì,
rằng có phải anh ta định kéo tôi đi đêm 30? Do tôi để Miên Đức Thắng hát? Dù
cho sau này do nghề báo, bám đuôi phái đoàn Tổng Thống Mỹ trong chuyến đi Việt
Nam năm 2,000, đôi khi tôi phải “gần chạm” vào anh nhạc sĩ thuở nào biến mất
sau đêm 30. Nhưng tôi cố tránh “không chạm.” Ngoài mấy lý do ai cũng hiểu, tôi
tránh vì một kinh nghiệm khác. Trong thời gian 7 năm tôi ở Sài Gòn sau khi từ
Thanh Hóa về năm 1984, một buổi trưa tình cờ tôi “đụng ngay vào ông nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn” ở khu đón hành khách ngoại quốc vào Việt Nam. Tôi bị bắt tay ông ta,
một bàn tay hờ hững nắm mấy ngón tay tôi, và ánh mắt cũng hờ hững nhìn tôi khi
người thứ ba giới thiệu tên tôi. Điều tệ hại hơn nữa là tôi lại ngu ngốc nói mấy
lời (như vớt vát?): “Tôi ở Quán Văn”. Trong đời, có đôi khi chúng ta trải qua
nhận xét này, một nhận xét rất không căn cứ, nhưng chúng ta rất mực tin rằng
đúng, là ánh mắt của ai đó bỗng như muốn quát vào mặt mình một câu nào đó, mà ở
trường hợp tôi, câu đó có thể là “biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”, hoặc “Có cút đi
không thì bảo!” Ánh mắt chàng lóe lên như vậy rồi chàng vội vã quay đi như thể
cô em từ Canada về đang đứng chờ kia. Chưa có ai chờ chàng cả! Kẻ giới thiệu?
đúng là hình ảnh “tiu nghỉu”, lủi thủi
theo chàng, còn tôi? Chẳng biết nên kể thế nào với quí vị. Chưa hết. Không biết
10 năm sau, hay 15 năm sau không chừng, tôi lại có mặt ở Sài Gòn vào một đêm
người ta tổ chức tưởng niệm Trịnh Công Sơn, hình như một nơi nào đó ở Gò Vấp, một
đêm báo chí Sài Gòn bảo rằng có đến trăm ngàn người. Lại vẫn người giới thiệu
đó, nhân lúc đi ăn trưa cùng nhau, đề nghị tôi đến dự đêm tưởng niệm, và xuất
hiện với tư cách “Chủ Quán Văn”, kể cho hàng chục ngàn người nghe chuyện Trịnh
Công Sơn ở Quán Văn như thế nào. Chàng ta suýt xoa, chắc chắn đây là điều bất
ngờ kỳ thú nhất của đêm nay, chàng còn nói đã liên lạc với ban tổ chức rồi. Bạn
thân từ thời sinh viên lê la khắp đa hoa, sau này vào lính lại từng cứu tôi
tránh mấy phiền nhiễu, nên cứ về Sài Gòn là tôi phải gặp anh chàng này. Tôi bật
cười chế diễu chàng: “Hey, Trịnh Công Sơn hồi đó nó suýt lạy tôi để tôi đừng nhắc
chuyện ngày xưa, ông nhớ không? Thôi tha cho nó đi, mà cũng tha cho tôi nữa.”
Tôi định bụng sẽ kể một lô các chuyện “Hậu Quán Văn” vào một dịp khác. Ai ngờ
dòng ký ức Tôn Thất Lập kéo tôi về hai mẩu nhỏ Trịnh Công Sơn, may mà tôi chỉ
lướt qua.
Nhắc
lại, hằng ngày tôi vẫn tự nhủ rằng “cái Quán Văn dễ thương này” là một sân chơi
tưởng rằng đơn sơ nhưng ẩn chứa bao điều phức tạp. Hồi đó, tuy tôn trọng các bạn
tham gia sáng lập quán, nhưng tôi cương quyết giữ phần quyết định về chương
trình đêm nhạc, mà lại không dám nói gì nhiều, chỉ lấy cớ “giữ tiêu chuẩn cao.”
Lỡ gọi tôi là “Chủ Quán”, anh em đành để tôi sắp đặt. Ở chỗ nào đó bên trên tôi có nói, Quán Văn này là một sân chơi cho đủ mọi phía. Không biết họ còn rình rập nhau, kềm giữ nhau được bao lâu. Tô phải cố tránh chuyện châm ngòi, nên phải cố gắng giữ sao cho sự trình diễn có một nội dung vừa phải trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh. "Tiêu chuẩn" này chỉ có anh Đỗ Ngọc Yến và tôi chia sẻ nhau. Tôi không thể nói với ai trong "nhóm Quán Văn". Sau này, có vài điều có thể coi như bằng chứng cho chuyện "rình nhau ngầm" tại quán, như trên youtube có
luân chuyển một clip ngắn thu hình lúc Khánh Ly hát một bài của Trịnh Công Sơn,
và Hoàng Xuân Giang đệm đàn. Tôi không nghĩ đó là clip duy nhất, ngắn như vậy,
và do bạn trẻ nào thu hình một cách bình thường. (https://www.youtube.com/watch?v=O8ymVpECaVg)
Vừa
rồi tôi chỉ kể chuyện Quán Văn trong vòng
nửa năm trời của nó, và một cách chung chung, tổng quát, thiên về những
gì ít được nói tới, ngay những bạn góp công sáng lập cũng ít biết. Còn về khu đất
dựng lên Quán Văn, đã được nhắc đến nhiều, những cơ sở trong khu đất đó cũng được
nhắc đến nhiều. Chỉ có điều khác biệt ít được nhắc đến là tính cách pháp nhân của
Quán Văn. Quán Văn không có tư cách pháp nhân như các đoàn thể, cơ sở khác
trong khu đất vì Quán Văn coi như của CPS. Cũng là điều may cho Quán Văn, nhờ vậy,
khi bị thời cuộc đóng cửa, quán không phải lo thanh lý tài sản, mà phần nhiều mấy
anh em “nhà dưới” đã từ từ giải quyết. Và cũng là điều may cho Quán Văn khi
khuynh hướng chung của xã hội nhắc đến hình ảnh Quán Văn như một thành tựu độc
lập. Gần đây có người cho rằng biến cố ở Đại Học Văn Khoa năm nào khiến Ngô
Vương Toại bị bắn có liên hệ Quán Văn. Điều này không có. Trong ban tổ chức đêm
hát đó ở Văn Khoa có mấy bạn là thành phần Quán Văn. Đêm đó nghe nói là để cổ động
cho chuyện bầu bán Ban Đại Diện Văn Khoa. Sau đó, chuyện này không ảnh hưởng
Quán Văn, cũng không phải nguyên do khiến Quán Văn ngưng hoạt động. Chính tôi
không dự đêm đó.
Còn
chuyện Khánh Ly, Trịnh Công Sơn ở Quán Văn, chuyện nhiều người tin rằng cả
Khánh Ly, cả nhạc Trịnh Công Sơn đều cất cánh từ Quán Văn mà bay bổng khắp các
khuôn viên đại học, rồi bay bổng khắp các vùng trời thành thị và nửa thành thị,
thì nhiều người đã nói đến. Nhưng nếu chỉ nhắc đến Quán Văn vì nhắc đến Trịnh
Công Sơn thì chưa đủ, hoặc chưa thấy hết. Có thể tôi trở lại chuyện này hoặc
khi cùng nhắc đến “Chương Trình Hè 65”, hoặc khi kể về những chuyện “Hậu Quán
Văn”, mà ngay các bạn cùng tôi sáng lập Quán Văn cũng không biết, chưa từng biết
vì chưa từng có ai nói đến, dù cho nhiều chuyện không phải một mình tôi can dự.
Và nếu tôi có kể thì chỉ như ít mảnh vụn để có ai tìm hiểu về phong trào thanh
niên thuở ấy, về nếp sinh hoạt sinh viên, học sinh thuở ấy, có thêm ít hình ảnh
nhỏ nhoi cho công trình nghiên cứu. Tuyệt nhiên không vì tôi nuối tiếc khoe về
“ngày ấy …”